Hoàn thiện dự thảo Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học đến năm 2030

  • Cập nhật: Thứ năm, 29/7/2021 | 3:08:08 PM

Chiều ngày 28/7, Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân chủ trì cuộc họp trực tuyến của Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự thảo Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tham dự có đại diện Tổng cục Môi trường, các đơn vị thuộc Bộ TN&MT cùng đại diện các Bộ, ngành, các chuyên gia, nhà khoa học…

Trình bày dự thảo Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, bà Hoàng Thị Thanh Nhàn – Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học (Tổng cục Môi trường) cho biết, Chiến lược giai đoạn mới được lập dựa trên việc đánh giá, tổng kết thực hiện Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Theo đó, dù đã đạt được nhiều kết quả nổi bật song đến nay, đa dạng sinh học của Việt Nam vẫn trên đà suy giảm, hệ sinh thái bị suy thoái, số lượng các loài bị đe dọa gia tăng. Tình hình vi phạm pháp luật về đa dạng sinh học, bảo vệ rừng vẫn tiếp tục ở mức cao. Vẫn thiếu thông tin và cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học.

"Chúng ta cũng chưa phát huy được giá trị của đa dạng sinh học phục vụ cho phát triển bền vững. Sự quan tâm của các cấp đối với vấn đề đa dạng sinh học cũng chưa thực sự mạnh mẽ. Chưa huy động được sự vào cuộc của toàn xã hội, đặc biệt của khối tư nhân trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học" – bà Nhàn nhấn mạnh.

Khắc phục tình trạng này, dự thảo Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học đến năm 2030 được xây dựng dựa trên quan điểm: Đa dạng sinh học là vốn tự nhiên quan trọng - nền tảng để bảo đảm phát triển bền vững đất nước; Bảo tồn đa dạng sinh học là một trong các giải pháp then chốt nhằm thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu.; Bảo tồn đa dạng sinh học gắn với sử dụng bền vững các dịch vụ hệ sinh thái và đa dạng sinh học góp phần giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Đẩy mạnh xã hội hóa và tăng cường hợp tác quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học. Đặc biêt, tăng cường thể chế và thống nhất, nâng cao hiệu quả quản lý đa dạng sinh học từ Trung ương đến địa phương; đẩy mạnh đầu tư bảo tồn và phát triển giá trị đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái; thực hiện quản lý tổng hợp hệ sinh thái và bảo vệ tính toàn vẹn của hệ sinh thái từ đất liền ra biển.

Theo đó, các hoạt động sẽ được chú trọng như kiểm kê, quan trắc và xây dựng cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học; Bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên thông qua việc củng cố, mở rộng và nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên và hành lang đa dạng sinh học; củng cố và mở rộng các khu vực/hệ sinh thái tự nhiên có tầm quan trọng quốc gia, quốc tế; phục hồi và cải thiện chất lượng các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng; áp dụng các biện pháp bảo tồn đa dạng sinh học tại khu vực đa dạng sinh học cao ngoài khu bảo tồn.

Mặt khác, bảo tồn các loài hoang dã, đặc biệt các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ, loài di cư; tăng cường công tác bảo tồn chuyển vị các nguồn gen; sử dụng bền vững đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái. Kiểm soát các hoạt động gây tác động xấu đến đa dạng sinh học như: Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động chuyển đổi mục đích sử dụng đất, mặt nước, phương thức canh tác, khai thác kém bền vững và các hoạt động gây ô nhiễm môi trường; Kiểm soát nạn khai thác, buôn bán và tiêu thụ động, thực vật hoang dã; Ngăn ngừa, kiểm soát chặt chẽ và phòng trừ có hiệu quả các loài sinh vật ngoại lai xâm hại; tăng cường quản lý an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen…

Góp ý vào dự thảo Chiến lược này, đại diện các Bộ cho rằng, cần phải đặt Chiến lược trong Khung Chiến lược toàn cầu về đa dạng sinh học toàn cầu sau năm 2020. Chiến lược cũng cần phát huy vốn tự nhiên đã được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường 2020, mở rộng cho khối tư nhân tham gia vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học.

Phát biểu chỉ đạo, Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân khẳng định, công tác bảo tồn đa dạng sinh học là trách nhiệm của toàn xã hội, của mọi tổ chức, cá nhân. Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học cần dựa trên căn cứ là Luật Đa dạng sinh học, Luật Lâm nghiệp, Luật Thủy sản, Luật Bảo vệ môi trường 2020, các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và thực trạng đa dạng sinh học của Việt Nam. Quá trình xây dựng và hoàn thiện dự thảo Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học phải song hành với nhiệm vụ xây dựng quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học, là cơ sở cho các quy hoạch có liên quan như đất đai, biển,…

Thứ trưởng yêu cầu, đơn vị soạn thảo tiếp thu và nhanh chóng hoàn thiện dự thảo Chiến lược. Dự kiến, dự thảo Chiến lược sẽ được trình Chính phủ vào tháng 10/2021.

​Với sự nỗ lực từ Trung ương đến địa phương cùng các tổ chức, cá nhân, đến nay, nhiều kết quả trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học đã được ghi nhận. Cụ thể, hệ thống các khu bảo tồn, khu có danh hiệu quốc tế được thành lập và củng cố. Đến năm 2020, trên cả nước, đã thành lập mới 9 khu bảo tồn (KBT), nâng tổng số khu bảo tồn hiện có lên 176 khu với tổng diện tích 2.512.530,78 ha. 12 khu bảo tồn biển đã được thành lập với tổng diện tích là 187.810,93 ha, chiếm 0,19 diện tích vùng biển Việt Nam. Đã thành lập 3 hành lang đa dạng sinh học tại các tỉnh Quảng Nam, Thừa Thiên Huế và Quảng Trị với tổng diện tích 521.878,28 ha.

Trong giai đoạn này, Việt Nam đã đề cử và công nhận thêm 4 khu Ramsar, nâng tổng số 9 khu Ramsar được quốc tế công nhận; có thêm 5 Vườn di sản ASEAN, nâng tổng số 10 khu Vườn di sản ASEAN; thêm 1 khu dự trữ sinh quyển thế giới, nâng tổng số 9 khu được công nhận. Các hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái đã được chú trọng phục hồi. Độ che phủ rừng đạt 42%. Doanh thu từ dịch vụ chi trả dịch vụ môi trường rừng hiện chiếm 22% tổng mức đầu tư hàng năm của toàn xã hội trong ngành lâm nghiệp…

Nguồn: Tổng cục Môi trường

Tags dự thảo hoàn thiện chiến lược quốc gia bảo tồn đa dạng sinh học

Các tin khác

Chiều 7/5, Hiệp hội Môi trường đô thị và Khu công nghiệp Việt Nam tổ chức hội nghị lấy ý kiến góp ý Dự thảo Thông tư ban hành quy trình kỹ thuật, Thông tư ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt.

Theo các chuyên gia, ngoài việc hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế thì việc các dự án phát triển hạ tầng giao thông, thậm chí là dự án thoát nước chậm triển khai cũng là nguyên nhân khiến công tác tiêu thoát nước, phòng chống ngập úng gặp nhiều khó khăn.

Liên quan đến việc xây đập dâng trên sông Hồng, đại biểu Quốc hội Phạm Quang Huân cho biết khi làm đập dâng trên sông Hồng sẽ thay đổi dòng chảy, từ đó làm ảnh hưởng tới sinh thái phía hạ lưu, nguy cơ nước mặn sẽ xâm nhập trở lại. Vì vậy, cơ quan chuyên môn cần phải nghiên cứu, đánh giá để tìm ra phương án tối ưu...

Tiếp theo bài viết 'Những vấn đề cần làm rõ để thực hiện Quy hoạch điện 8' đăng trên Tuần Việt Nam/VietNamNet, trong phạm vi bài viết này sẽ tập trung phân tích các vấn đề về điện rác ở Thành phố Hồ Chí Minh trong Quy hoạch điện 8.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục
 
Thời sự