Tiềm năng của thảm cỏ biển Việt Nam trong hấp thụ carbon

  • Cập nhật: Thứ tư, 28/8/2024 | 4:29:44 PM

QLMT - Theo ước tính, tổng trữ lượng carbon hữu cơ của các thảm cỏ biển ở Việt Nam đạt hơn 878 nghìn tấn, tương ứng với khoảng 3,2 triệu tấn CO2 hoặc 3,2 triệu tín chỉ carbon, có giá trị lên tới hơn 64 triệu USD trên thị trường.

Đó là kết quả được đưa ra từ nghiên cứu mới của Viện Tài nguyên và Môi trường biển, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Nghiên cứu đã mang đến cái nhìn sâu hơn về vai trò quan trọng của thảm cỏ biển trong việc hấp thụ carbon. 


Một hệ sinh thái thảm cỏ biển tiêu biểu ở vùng biển ven bờ miền Trung. Ảnh: Tham khảo

Cỏ biển là một nhóm thực vật bậc cao có hoa, sống trong môi trường biển và nước lợ, phân bố rộng rãi trên khắp các đại dương, ngoại trừ Nam Cực. Không chỉ đóng vai trò là nơi cư trú cho nhiều loài thủy sinh, cỏ biển còn có  khả năng điều hòa môi trường nhờ vào khả năng hấp thụ CO2. Điều này khiến cỏ biển trở thành một trong những nhân tố quan trọng trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.

Mặc dù chỉ chiếm khoảng 0,2% diện tích đáy biển, nhưng cỏ biển đóng góp tới 10-18% lượng carbon hữu cơ trong hệ sinh thái biển mỗi năm. Đáng chú ý, khả năng hấp thụ carbon của cỏ biển cao hơn từ hai đến ba lần so với rừng thường xanh và tốc độ hấp thụ carbon nhanh hơn 35 lần so với rừng mưa nhiệt đới. Điều này cho thấy cỏ biển không chỉ là một nguồn tài nguyên quan trọng mà còn là một công cụ hữu hiệu trong việc giảm thiểu lượng carbon dioxide trong khí quyển.

Nghiên cứu do TS Cao Văn Lương và cộng sự tại Viện Tài nguyên và Môi trường biển tiến hành đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc đánh giá tiềm năng hấp thụ carbon của cỏ biển tại Việt Nam. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành hai chuyến khảo sát tại bốn khu vực biển tiêu biểu: Hà Đông (Quảng Ninh), Cửa Gianh (Quảng Bình), Vân Phong (Khánh Hòa), và Phú Quốc (Kiên Giang).

Trên tổng diện tích hơn 8.600 ha, nhóm nghiên cứu đã thống kê được 10 loại cỏ biển phân bố rải rác. Tổng trữ lượng carbon hữu cơ trong các thảm cỏ biển ở bốn khu vực này đạt hơn 346 nghìn tấn Corg, với trung bình 40,12 tấn Corg/ha. Đây là cơ sở để nhóm nghiên cứu ước tính tổng trữ lượng carbon hữu cơ của các thảm cỏ biển tại Việt Nam, với con số ấn tượng hơn 878 nghìn tấn.

Với tổng trữ lượng carbon này, thảm cỏ biển Việt Nam có khả năng tương đương với 3,2 triệu tín chỉ carbon. Trên thị trường quốc tế, giá trị của các tín chỉ carbon phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng với ước tính hiện tại, giá trị của 3,2 triệu tín chỉ carbon có thể đạt tới 64 triệu USD. Điều này không chỉ mở ra cơ hội kinh tế lớn mà còn tạo động lực cho việc bảo tồn và phát triển các thảm cỏ biển.

Mặc dù nghiên cứu này đã đưa ra những con số ấn tượng, nhưng TS. Cao Văn Lương cũng nhấn mạnh rằng đây chỉ là đánh giá tức thời trong hai năm 2022 và 2023. Để có những kết quả chính xác hơn, cần có các nghiên cứu dài hạn, đồng thời mở rộng phạm vi khảo sát đến các khu vực biển, đảo ngoài khơi như một số quần đảo tại vịnh Thái Lan.

Nghiên cứu đã đặt nền móng cho việc hiểu rõ hơn về tiềm năng của cỏ biển trong việc hấp thụ carbon tại Việt Nam, tạo cơ hội cho những nghiên cứu tiếp theo nhằm tận dụng tối đa lợi ích của loại tài nguyên này.

Thảm cỏ biển Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái biển và là một nguồn tài nguyên kinh tế tiềm năng, đặc biệt trong bối cảnh thị trường carbon đang phát triển mạnh mẽ. Việc nghiên cứu và bảo tồn các thảm cỏ biển sẽ góp phần vào việc bảo vệ môi trường, mở ra cơ hội kinh tế bền vững cho Việt Nam trong tương lai.

LÂM HÀ (T/h)

Tags cỏ biển hấp thụ carbon CO2 carbon

Các tin khác

Từ thân cây thanh long, một loại thực vật phổ biến của Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã tạo ra một loại màng mỏng chitosan làm bao bì đóng gói với đặc tính kháng khuẩn vượt trội.

Hiện nay, cầu lương thực của cả nước nói chung và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng ngày càng tăng. Trồng lúa ba vụ/năm đã giúp cho sản lượng lúa tăng lên đến 14-16 tấn/ha/năm, bù đắp được lượng lúa bị giảm do đất trồng lúa bị sử dụng vào mục đích khác (Nguyễn Bảo Vệ, 2010).

Hệ thống xử lý rác thải y tế bằng công nghệ hấp nhiệt ướt có thể đáp ứng nhu cầu cho các bệnh viện tự xử lý hay các mô hình tập trung từ 0,5 - 1 tấn và 2 - 10 tấn/ngày tùy quy mô.

Thành phố Hải Phòng trong những năm qua đã có những thay đổi vượt bậc về hệ thống cơ sở hạ tầng. Các khu đô thị lớn hình thành, các khu công nghiệp mở rộng nằm bao quanh thành phố đã thu hút lượng lớn lao động trong và ngoài thành phố đến làm việc sinh sống. Điều này cũng đồng nghĩa với việc gia tăng tương đối lớn về rác thải sinh hoạt (bao gồm cả khối lượng và chủng loại).

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục