Ảnh: TL
Tết đã về!
Dòng người đổ về làng hoa đào Nhật Tân, đan xen, chiều ngược lại dòng người từ làng hoa chở từng bó hoa, cành đào mang hương thơm và hơi thở của mùa xuân đến từng nhà. Thế là Tết đã về!
Đối với tôi, khi nào nhìn thấy người đầu tiên vác cành đào trên vai hay chở trên xe đạp, xe máy đi trên phố lúc đó là Tết về, có khi thời điểm đó cách Tết nguyên đán cả tháng trời. Nhiều năm nay tôi đã tự thưởng cho mình một "đặc ân” sau một năm làm việc vất vả đó là dành cả một buổi sáng, vác máy ảnh đi chụp ảnh vườn đào trong ngày 29 hoặc 30 Tết. Một mình lang thang trong "rừng” đào Nhật Tân, trong không gian tĩnh lặng, tôi cảm nhận được sự chuyển mình của đất trời từ mùa đông giá lạnh sang mùa xuân ấm áp, sinh sôi nảy nở, sự cựa cậy của chồi non, nụ biếc. Đó là lúc cánh "phó nháy” chúng tôi thăng hoa sáng tạo khung hình cánh hoa đào "đính” giọt sương long lanh do những tia nắng chiếu chếch ngược tạo nên. Hay vô tình bấm được kiểu ảnh người con gái Hà Thành với nụ cười xinh và tà áo dài lướt qua ống kính.
Năm nào cũng vậy, sau khi chụp hoa đào Nhật Tân là tôi lại quay về chụp cảnh Hồ Gươm. Những năm đất nước bước vào đổi mới nhất là từ dịp Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng long – Hà Nội trở lại đây, cứ mỗi độ Tết đến xuân về Hồ Gươm trở thành đại vườn hoa. 1,7 km chung quanh hồ là một thảm hoa đủ sắc mầu. Đó là các loài hoa được chuyển từ Đà Lạt ra: ... hay từ vườn ươm của Công ty Công viên cây xanh.
Bên trên thảm hoa là "rừng” hoa đào được trồng dọc theo phố Lê Thái Tổ, Đinh Tiên Hoàng. Khi chưa có đồng hồ tròn ở ngã tư Đinh Tiên Hoàng – Hàng Khay nơi đây là một "mâm” hoa đào, quất. Hoa xuân kéo dài liên tục chung quanh hồ, khi hoa đào, thảm hoa, kém sắc thì cả hồ tràn ngập sắc mầu hoa ban tím, hoa vàng muồng hoàng yến, hoa sưa trắng muốt, hao gạo đỏ ối, chưa kể sắc vàng của lá cây lộc vừng mùa thay lá. Cảnh sắc Hồ Gươm cứ thế mà biến đổi theo từng mùa trong năm.
Ảnh: TTXVN
Cảnh sắc Hồ Gươm bây giờ là thế, còn hằng trăm năm trước thế nào nhỉ?
Tác giả Bình Di – Quang Vũ cho chúng ta biết được cảnh sắc Hồ Gươm vào những năm cuối thế kỷ XVII (Cuốn sách Họ Trịnh và Thăng Long - NXB Từ điển Bách Khoa Hà Nội 2008): "Chung quanh hồ trồng hoa cỏ, cây lạ, nuôi chim, giữ gìn sạch sẽ, nghiêm cấm dân thường không được tới câu cá, hái hoa. Cuối hồ khơi một con ngòi dẫn ra sông Hồng để thuyền ra vào được gọi là bến Tây Long để đối với bến Đồng Tân phường Hà Khẩu”.
Cảnh sắc Hồ Gươm vào những năm giữa thế kỷ XIX lại thật bất ngờ bởi không phải vườn cây, hoa mà là khu dân cư sống đông đúc chung quanh hồ, có gia đình còn đóng cọc làm nhà trên mặt hồ. Theo André Masson tác giả cuốn sách Hà Nội giai đoạn 1873 – 1888 (Nhà in KH và CN năm 2003) tả lại cảnh quan hồ Hoàn Kiếm những năm 50 của thế kỷ XIX như sau: Các túp lều của dân bản xứ trên bờ hồ san sát nhau đến nỗi, người ta phải len lỏi qua những ngõ ngách chật hẹp men theo hàng ngàn khúc quẹo quanh những ngôi nhà lá. Nhiều khi sau một giờ lần mò trên những con đường lượn đi lượn lại như mê cung, nhà thám hiểm dũng cảm nhất lại về đúng chỗ xuất phát không sao tới được mép nước.
Ảnh TL: Kienthuckhoahoc
Khi Hà Nội trở thành nhượng địa năm 1888, kế hoạch mở rộng và xây dựng thành phố theo kiểu châu Âu được triển khai nhanh hơn và họ chú ý đến cây xanh. Năm 1889, một số nhà thực vật người Pháp đã thành lập vườn thí nghiệm thực nghiệm thực vật (ở đầu làng Ngọc Hà và Hữu Tiệp) để ươm các giống cây và hoa nhập từ nước ngoài. Lần đầu tiên trong lịch sử của thành phố này, Tổng Trú sứ Brière đã thành lập đội nhân viên trồng cây xanh trong Nghị định ngày 1-1-1890. Tiếp đó ngày 21-4-1890 ông ta ký tiếp Quy chế lục lộ trong đó quy định chỉ trồng cây tại các phố có vỉa hè từ 4m trở lên. Theo Quy chế thì hầu hết "36 phố phường” dù có nắng cũng không được trồng cây vì vỉa hè chỉ rộng có 3m. Tuy nhiên sau năm năm có quy chế cây cây mới được trồng chung quanh Hồ Gươm và các phố phía Nam hồ vì lúc đó vườn thí nghiệm thực vật mới có cây giống. Cây được trồng gồm giống bản địa như: Nhội, sấu, sưa...Giống nhập có xà cừ, phượng (châu Phi) muồng (nam Mỹ), bằng lăng (Úc), tếch (thượng Lào), cây cọ dại (Châu Phi), cây hoa phượng vĩ (Ghi – nê). Theo nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến: Năm 1902 Hà Nội trở thành thủ đô Liên bang Đông Dương, bộ mặt đô thị ngày được quan tâm hơn. Ngày 22-8-1902, đốc lý Frédéric (nhiệm kỳ 1901-1903) quy đinh cây xanh trồng ở Hà Nội phải tuân theo tiêu chí: Có bóng mát, bảo đảm mỹ quan, không có nhựa và khí độc hại, không đổ trước các trận bão vừa phải. Cây lá to phải trồng xa cống thoát nước để tránh lá rụng làm tắc cống. Ven hồ phải trồng cây lá nhỏ vì lá rụng không làm thối nước hồ, ở các phố có vỉa hè hẹp phải chọn giống cây thân thẳng và cao, cây sẽ không nghiên ra đường và chung quanh. Cũng vì quy định này mà chúng ta thấy cây phượng, cây si, cây sưa, bụt mọc thường được bố trí trồng sát mép hồ.
Nhà văn Tô Hoài có một cảm nhận sâu sắc về cây ở Hồ Gươm: Cây Hồ Gươm của Hà Nội thoạt nhìn không ra thể thức nào, nhưng để ý kỹ sẽ thấy được một lề lối của mỗi bóng cây bóng nước. Phong tục nước ta tuổi già có thói quen quý hoá thường trồng cây cho đời sau. Mỗi cây từ Hồ Gươm đều đến từ cổng đồng, cổng làng bờ ao, mỗi cây đem về một hình ảnh mọi miền quê.
Hà Hồng