Nhận định trên được đưa ra tại hội nghị "Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học" vừa được Cục Bảo vệ thực vật tổ chức. Hội nghị nhằm đánh giá kết quả thực hiện bước đầu, nhận diện những khó khăn và thách thức, cũng như thảo luận về chiến lược và cách thức triển khai cụ thể để thúc đẩy việc sử dụng thuốc BVTV sinh học trong tương lai tại Việt Nam.
Ảnh minh hoạ. ITN
Vai trò của thuốc BVTV trong nông nghiệp
Phát biểu khai mạc hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hoàng Trung, đã chia sẻ về tình hình hiện tại của ngành trồng trọt tại Việt Nam. Theo ông, tính đến tháng 10/2023, kim ngạch xuất khẩu của ngành này đạt khoảng 22 tỷ USD, chiếm gần 50% giá trị xuất khẩu của ngành nông nghiệp. Nhiệm vụ chính của ngành trồng trọt không chỉ là đảm bảo kiểm soát sâu bệnh và dịch hại, mà còn là hỗ trợ cho sự phát triển bền vững, xanh và chất lượng cao trong ngành nông nghiệp. Vì vậy, việc phát triển và sử dụng thuốc BVTV, đặc biệt là thuốc BVTV sinh học, đang trở nên rất quan trọng và đã được nêu trong các đề án của ngành nông nghiệp.
Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đánh giá cao nỗ lực của các doanh nghiệp, hiệp hội và địa phương đã hỗ trợ trong việc đẩy mạnh việc sử dụng thuốc BVTV sinh học. Các thành tựu bao gồm xây dựng các mô hình sử dụng thuốc BVTV sinh học, thay đổi nhận thức và tư duy của người dân, tạo ra sản phẩm thuốc BVTV sinh học và áp dụng chúng trong sản xuất.
Hiện tại, thuốc BVTV sinh học chiếm 19% trong danh mục các loại thuốc BVTV, và lượng sử dụng ngày càng tăng theo thời gian. Đây là cơ sở quan trọng để phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học trong tương lai.
Xu hướng nghiên cứu, phát triển và sử dụng thuốc BVTV sinh học
Tại hội nghị, Hiệp hội CropLife châu Á và CropLife Việt Nam đã chia sẻ về xu hướng nghiên cứu, phát triển và sử dụng thuốc BVTV sinh học trên toàn cầu, cùng với đề xuất để thúc đẩy ứng dụng tại các nước có mô hình canh tác quy mô nhỏ, bao gồm Việt Nam. Trong toàn bộ thế giới, có hơn 600 hoạt chất BVTV tổng hợp, và hiện tại đã có khoảng 300 hoạt chất và sinh vật trừ sâu sinh học. Bắc Mỹ đang dẫn đầu với tỷ lệ ứng dụng thuốc BVTV sinh học cao nhất, đặc biệt là thuốc trừ sâu sinh học chiếm tỷ lệ cao trong danh sách các loại thuốc BVTV. Trong giai đoạn từ 2005-2025, thị trường thuốc BVTV sinh học đang có tốc độ tăng trưởng hàng năm ổn định 10%, trong khi tỷ lệ này của thuốc BVTV hóa học đang giảm 3% mỗi năm.
Theo tổ chức CropLife châu Á, thuốc BVTV sinh học là một công cụ hữu ích trong chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) khi được kết hợp với các sản phẩm hóa chất nông nghiệp khác, các biện pháp canh tác, quản lý thời tiết và các yếu tố đầu vào khác để đảm bảo năng suất và chất lượng tối ưu trong việc phòng trừ dịch hại. Đặc biệt, thuốc BVTV sinh học hiệu quả ở các giai đoạn như đầu mùa vụ, khi áp lực sâu bệnh thấp, và tại cuối mùa vụ khi cần kiểm soát dư lượng thuốc BVTV trong nông sản. Điều này giúp hạn chế sự phát triển của kháng thuốc BVTV sinh học.
Những chính sách thúc đẩy phát triển thuốc BVTV sinh học tại Việt Nam
Tại Việt Nam, để thúc đẩy cụ thể các chính sách về thuốc BVTV sinh học, Cục BVTV đã xây dựng và triển khai chương trình "Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học giai đoạn 2021-2025". Ngoài ra, đã có những chính sách ưu tiên về đăng ký thuốc BVTV sinh học so với các loại thuốc BVTV hóa học, và cung cấp khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu khoa học và công nghệ hiện đại để sản xuất thuốc BVTV sinh học theo quy định tại Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật. Loại thuốc BVTV sinh học đã được đăng ký và phê duyệt cho sử dụng tại Việt Nam bao gồm thuốc BVTV sinh học là các vi sinh vật chiếm khoảng 13%, thuốc BVTV sinh học có nguồn gốc tự nhiên chiếm khoảng 24%, và thuốc BVTV sinh học thuộc nhóm hóa sinh chiếm khoảng 63%.
Theo Cục trưởng Cục BVTV Huỳnh Tấn Đạt, dữ liệu từ các địa phương cho thấy rằng trong 3 năm gần đây (2020-2022), tổng lượng thuốc BVTV sử dụng trung bình cả nước đã có xu hướng giảm dần qua các năm, từ 3,81 kg/ha vào năm 2020 xuống còn 3,19 kg/ha vào năm 2022. Tuy nhiên, lượng thuốc BVTV sinh học sử dụng trung bình trên cả nước vẫn ổn định và đã tăng từ 16,67% vào năm 2020 lên 18,49% vào năm 2022.
Bên cạnh những ưu điểm của thuốc BVTV sinh học, có những hạn chế, như nhận thức hạn chế của doanh nghiệp, người dân và địa phương, quy định hiện hành chưa đủ hấp dẫn để thúc đẩy nghiên cứu và phát triển thuốc sinh học. Các nghiên cứu về thuốc BVTV sinh học hiện tập trung chủ yếu ở bước phòng thí nghiệm.
Thuốc BVTV sinh học không nên được xem là một biện pháp thay thế cho thuốc BVTV hóa học
Tiến sỹ Tony Alfonso, Chủ tịch Tổ công tác về thuốc BVTV sinh học của Hiệp hội CropLife châu Á, đã nhấn mạnh rằng thuốc BVTV sinh học không nên được xem là một biện pháp thay thế cho thuốc BVTV hóa học. Ông cho rằng cần thiết phải áp dụng cách tiếp cận linh hoạt để đăng ký thuốc BVTV sinh học dựa trên đánh giá khoa học và điều kiện thực tiễn. Điều này giúp đảm bảo tính an toàn và hiệu quả của sản phẩm mà không làm hạn chế việc giới thiệu và thương mại thuốc BVTV sinh học trên thị trường. Cần cập nhật và cụ thể hoá khái niệm thuốc BVTV, bổ sung quy định về sản phẩm sinh học mới và đơn giản hoá quy trình đăng ký và quản lý cho thuốc BVTV sinh học.
Với những đánh giá, thảo luận và đề xuất của các chuyên gia trong lĩnh vực BVTV tại hội nghị hy vọng sẽ góp phần thúc đẩy việc sử dụng thuốc BVTV sinh học nhằm phát triển ngành nông nghiệp bền vững và cung cấp lựa chọn thúc đẩy sản xuất nông sản chất lượng cao tại Việt Nam.
TÙNG LÂM (T/h)