Tìm nguồn lực cho bảo tồn đa dạng sinh học

  • Cập nhật: Chủ nhật, 25/6/2023 | 7:40:07 AM

Cần đa dạng hóa nguồn lực, có chiến lược để huy động nguồn lực hiệu quả cho các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam. Đó là kiến nghị của các chuyên gia nhằm phát huy có hiệu quả việc bảo tồn đa dạng sinh học hiện nay.

Công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức. Đó là sử dụng đất thiếu quy hoạch, khai thác quá mức các hoạt động săn bắt, buôn bán động vật hoang dã trái phép đã khiến diện tích tự nhiên trên cạn, vùng ngập nước và vùng biển bị thu hẹp, một số loài động thực vật có nguy cơ bị tuyệt chủng… gây ra tình trạng suy thoái hệ sinh thái, mất cân bằng đa dạng sinh học.

Nguồn lực chưa đủ cho bảo tồn

Theo TS. Nguyễn Mạnh Hà – Trung tâm Bảo tồn Thiên nhiên và Phát triển (CCD), đầu tư cho bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) và đặc biệt là phục hồi các hệ sinh thái, phục hồi các loài nguy cấp cần nhiều thời gian và nguồn lực lớn. Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành các chính sách, chiến lược và quy định về quản lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ rừng, biển và giá trị ĐDSH nhằm nỗ lực hạn chế suy thoái và bảo tồn các hệ sinh thái, loài và vùng cảnh quan có giá trị.

Tuy nhiên, nguồn ngân sách Nhà nước là nguồn tài chính quan trọng nhất cho công tác quản lý và bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam, nhưng trong bối cảnh ngân sách Nhà nước hiện nay vẫn chưa đủ đáp ứng cho bảo tồn ĐDSH trong việc thực hiện các công tác quản lý, nghiên cứu, bảo tồn ở mức độ cơ bản nhất. Do vậy, cần phải có một cơ chế tài chính mới, chính sách mới để thu hút được các nguồn lực ngoài bổ sung cho những thiếu hụt đó về lâu dài và bền vững hơn bằng cách xây dựng một cơ chế khuyến khích, huy động sự tham gia của người dân Việt Nam và khối doanh nghiệp đầu tư tài chính cho bảo tồn ĐDSH hay các cơ chế mới trong hình thức chi trả dịch vụ hệ sinh thái ngoài hệ sinh thái rừng, chính sách khuyến khích, đóng góp phần phụ trội thuế của cá nhân và doanh nghiệp cho ĐDSH.

Bên cạnh đó, để thu hút đóng góp, hỗ trợ từ các tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng cho công tác bảo tồn ĐDSH, cần có các cơ chế chứng chỉ, tín chỉ ĐDSH, tiếp cận thị trường tín chỉ carbon, cơ chế hoán đổi nợ cho bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH, trái phiếu xanh, tín dụng xanh và thiết lập các quỹ về DDSH như Quỹ bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái, Quỹ cứu trợ loài...

Ngoài ra, cần phát huy giá trị từ các khối doanh nghiệp, các hộ gia đình kinh doanh và đóng góp từ người dân Việt Nam; Mở rộng các cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái để có thể thu hút và huy động hiệu quả các nguồn lực. Trong đó, loại hình chi trả dịch vụ hệ sinh thái ở Việt Nam bước đầu đã được áp dụng thành công đối với hệ sinh thái rừng. Quỹ bảo vệ và Phát triển rừng đã hình thành việc chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) giúp đóng góp vào nguồn lực phi ngân sách cho ngành Lâm nghiệp, gia tăng nguồn thu cho rừng, giảm nhẹ gánh nặng lên ngân sách Nhà nước và nâng cao hiệu quả bảo vệ cũng như phát triển rừng, tạo thu nhập và sinh kế cho nhiều cộng đồng miền núi. Vì vậy, trong việc bảo tồn hệ sinh thái, ĐDSH, cần mở rộng hình thức chi trả này cho các dịch hệ sinh thái khác để tạo nguồn thu cho việc bảo tồn, phục hồi các hệ sinh thái và các loài hoang dã nhằm bảo tồn, phục hồi hệ sinh thái, phục hồi các loài nguy cấp mà hiện nay ngân sách vẫn chưa thể đầu tư được.

Bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam đang rất cần thêm nguồn lực
Bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam đang rất cần thêm nguồn lực

Cần có chính sách huy động tài chính hiệu quả

Để hoạt động bảo tồn ĐDSH bền vững, việc xây dựng chiến lược và lộ trình cho việc huy động nguồn lực trong giai đoạn mới cần chú trọng vào chính sách tài chính cũng như đặt ra các định hướng rõ ràng trong các hoạt động quản lý, điều phối; Các nguồn xã hội hóa cần được vận động để hỗ trợ công tác nghiên cứu, bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái, các loài. Đồng thời, nhằm bổ trợ nguồn ngân sách Nhà nước cho công tác bảo tồn ĐDSH, nên việc xây dựng kế hoạch thực hiện, huy động nguồn lực cũng cần phải được ưu tiên cho giai đoạn 2022-2025.

Căn cứ vào chiến lược, thiết lập các hình thức huy động nguồn lực mới, linh hoạt và thông minh từ các nguồn xã hội hóa thông qua đóng góp từ doanh nghiệp, hộ gia đình kinh doanh và người dân với cơ chế sử dụng hiệu quả và minh bạch. Ngoài ra, dựa trên những thành công của chi trả dịch vụ môi trường rừng, cần thúc đẩy và mở rộng chi trả cho các dịch vụ hệ sinh thái khác như nước công nghiệp, du lịch, nuôi trồng thủy sản và hấp thụ và lưu trữ các-bon.

Dựa vào kinh nghiệm từ các quỹ Ủy thác ngành lâm nghiệp (TFF), Quỹ bảo tồn Việt Nam (VCF) và Quỹ bảo vệ và Phát triển rừng (VNFF), các chuyên gia cho rằng, cần thúc đẩy các cơ chế quỹ, định chế tài chính mới trong thu hút đâu tư, đóng góp cho ĐDSH thông qua việc thiết lập các quỹ công-tư về đa dạng sinh học như quỹ Bảo tồn ĐDSH Việt Nam, Quỹ phục hồi hệ sinh thái và loài hoang dã... Từ đó, việc đầu tư cho ĐDSH sẽ được thực hiện một cách chiến lược và hiệu quả nhất cho công tác bảo tồn ĐDSH và đặc biệt là cho các nỗ lực bảo vệ, phục hồi các loài hoang dã đang bị đe dọa.

Hoài Thu/more.gov.vn

Tags động vật hoang dã đa dạng sinh học bảo tồn nguồn lực

Các tin khác

Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra cực đoan hơn trên phạm vi toàn cầu. Những hiện tượng thời tiết bất thường như mưa, bão, lũ lụt, nắng nóng… xuất hiện với tần suất cao thời gian gần đây cho thấy, BĐKH ngày càng diễn biến phức tạp.

Tại Việt Nam, mạng lưới quan trắc môi trường đã được hình thành từ những năm 90 của thế kỷ trước sau khi Luật BVMT đầu tiên ra đời năm 1993. Ngày 7/3/2024, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đã ký Quyết định số 224/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể quan trắc môi trường quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây là Quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành, tiếp nối các quy định trước đây tại Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg và Quyết định số 90/QĐ-TTg để tiếp tục hoàn thiện mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia.

Nhận định về tài nguyên nước ở Đồng bằng sông Cửu Long, nhiều chuyên gia cho rằng, vùng có nguy cơ mất an ninh nguồn nước rất lớn. Ngoài việc thiếu nước thì chất lượng nguồn nước ngày càng suy giảm.

Theo Báo cáo tài nguyên nước quốc gia, tổng lượng nước trên phạm vi toàn quốc trung bình nhiều năm khoảng 935,9 tỷ m3/năm, trong đó, nguồn nước mặt khoảng 844,4 tỷ m3/năm; nguồn nước dưới đất khoảng 91,5 tỷ m3/năm. Do đó, nước ta chưa phải là quốc gia thiếu nước nghiêm trọng. Tuy nhiên trong những năm gần đây, tài nguyên nước Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức lớn. Ngay trong đợt hạn mặn hiện nay, nhiều địa phương đối mặt nguy cơ thiếu nước.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục