Cấp nước miền Bắc : Phấn đấu năm 2022 tỷ lệ thất thoát nước dưới 15%

  • Cập nhật: Thứ hai, 21/9/2020 | 5:52:55 PM

QLMT - Sáng ngày 19-9 tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế (số 35 Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội) đã diễn ra Đại hội Chi hội Cấp nước Miền Bắc lần thứ 20, nhiệm kỳ 2020 - 2022.

Tới tham dự có PGS.TS Nguyễn Hồng Tiến, Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hội Cấp thoát nước Việt Nam, cùng đông đảo các hội viên đại diện cho hơn 17.000 CBCNV Chi hội nước miền Bắc.


Chi hội cấp nước Miền Bắc với gần 100 hội viên bao gồm các đơn vị hoạt động trong các lĩnh vực: Sản xuất, cung cấp nước sạch, tư vấn đầu tư, thi công xây lắp, sản xuất và cung cấp vật tư, thiết bị, nguyên nhiên liệu phục vụ ngành nước đóng trên địa bàn của 29 tỉnh, thành phố phía Bắc tới Quảng Bình và một số đơn vị phía Nam có hoạt động, dịch vụ tại phía Bắc.

Theo báo cáo của Chi hội Cấp nước miền Bắc, nhiệm kỳ 2018 - 2020 các đơn vị hội viên Chi hội cấp nước Miền Bắc hoạt động trong lĩnh vực sản xuất cấp nước và dịch vụ ngành nước đang đứng trước những thuận lợi, thời cơ và vận hội mới. 

Tuy nhiên chúng ta đã gặp phải những thách thức, khó khăn trong việc đảm bảo nguồn nước, chất lượng nước, chất lượng sản phẩm hàng hoá để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, du lịch, dịch vụ như:  Biến đổi khí hậu, nắng hạn kéo dài, đã làm công tác sản xuất cấp nước gặp khó khăn về đảm bảo nguồn nước, chất lượng nước; Do dịch bệnh Covid 19 đã làm ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu tiền nước, do sự sụt giảm sản lượng của nhóm ngành du lịch, dịch vụ, sản xuất; Một số đơn vị chưa được điều chỉnh giá bán nước khi giá cả vật tư, hoá chất, điện, xăng dầu có sự điều chỉnh liên tục đã làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống CBCNV; Công tác cổ phần hóa của một số công ty trong chi hội đang tiến hành triển khai và thực hiện theo đúng lộ trình của Thủ tướng chính phủ ban hành; Do nhu cầu sử dụng nước tăng cao, một số nhà máy nước đã vận hành hết công suất nhưng do lãi xuất vốn vay cao, cơ hội tiếp cận nguồn vốn lãi xuất thấp (ưu đãi) khó khăn nên một số đơn vị chưa thực hiện được việc nâng công suất Nhà máy để đáp ứng nhu cầu sản xuất.


Ảnh Nguyễn Thị Minh Phượng

Một số kết quả đã đạt được

1. Lĩnh vực sản xuất, cung cấp nước sạch.

Các hội viên hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, cung cấp nước sạch, trong hai năm qua, lĩnh vực cấp nước đã có nhiều chuyển biển tích cực về thể chế, về đầu tư và quản lý vận hành, tạo nên những nhân tố cho sự phát triển bền vững, chất lượng sản phẩm,chất lượng dịch vụ được cải thiện; tỷ lệ dân số được tiếp cận và sử dụng nước sạch tăng cao, tỷ lệ thất thoát giảm, lượng nước sử dụng bình quân trên 123 lít/người/ngày, mức độ ổn định của dịch vụ đạt 16-20 giờ/ngày, các đô thị loại 1-2 đảm bảo cung cấp nước liên tục 24 giờ/ngày. Các đơn vị đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu về sản xuất kinh doanh đề ra, cụ thể:



Nhiều đơn vị hội viên đã quan tâm đầu tư mở rộng mạng lưới, nâng cao năng lực cấp nước, nâng cao độ phủ cấp nước đô thị đáp ứng nhu cầu phát triển hạ tầng đô thị của địa phương, trong đó đã quan tâm đến việc cấp nước cho các thị trấn cấp huyện và từng bước cấp nước ra các vùng ven đô thị và nông thôn.  Nguồn vốn đầu tư phát triển hệ thống cấp nước được các đơn vị chủ động tìm kiếm, ngoài các nguồn vốn tự có, vốn Ngân sách nhà nước, vốn ODA, vốn vay ưu đãi,... nhiều đơn vị đã mạnh dạn sử dụng vốn vay thương mại để đầu tư phát triển hệ thống cấp nước.


Một số đơn vị đã mạnh dạn đầu tư chiều sâu, áp dụng công nghệ mới trong xử lý nước để nâng cao hiệu quả khai thác các hệ thống cấp nước hiện có như: Cải tạo nâng công suất nhà máy, tiết kiệm chi phí sản xuất, tiết kiệm điện, vật tư, nguyên nhiên liệu… và thực hiện công tác đầu tư, áp dụng công nghệ mới, công nghệ tin học để nâng cao năng lực quản lý điều hành và giảm tỷ lệ thất thoát nước sạch,... .Ảnh Nguyễn Thị Minh Phượng

Phương thức "Tự ghép đôi" để học hỏi và giúp đỡ lẫn nhau trong công tác quản lý chuyên môn, kỹ thuật chống thất thoát, ứng dụng công nghệ mới đã và đang được nhiều đơn vị áp dụng một cách hiệu quả. Vấn đề kiểm soát tỷ lệ thất thoát nước sạch đã có nhiều chuyển biến, nhiều đơn vị trong Chi hội đã hạ được tỷ lệ thất thoát xuống dưới mức quy định của Chính phủ. Tính đến nay tỷ lệ thất thoát bình quân của các đơn vị sản xuất cấp nước trong Chi hội là 17%. 

Công tác cấp nước an toàn đã được các đơn vị chú trọng triển khai. Trong thời gian qua, công tác cấp nước đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu sử dụng nước của khách hàng góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế và an sinh xã hội của các địa phương.

Về công tác cổ phần hóa, thoái vốn tại các doanh nghiệp ngành nước được đẩy mạnh, tính đến nay đã 39/42 đơn vị Hội viên trong Chi hội hoạt động trong lĩnh vực sản xuất cấp nước đã chuyển đổi mô hình hoạt động sang công ty cổ phần, còn 3 đơn vị đang tiến hành các bước để cổ phần hóa, một số đơn vị đang tiếp tục thực hiện thoái vốn nhà nước đảm bảo nhà nước không chi phối hoặc không nắm giữ cổ phần tại doanh nghiệp. Các Công ty sau cổ phần hóa đều hoạt động hiệu quả, chủ động trong việc đầu tư phát triển sản xuất.

2. Lĩnh vực Tư vấn - Thi công xây lắp.

Trong xu thế cạnh tranh theo Luật đấu thầu, các doanh nghiệp trong nước hoạt động kinh doanh đa ngành, một số doanh nghiệp lớn ngoài Chi hội có kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn, thi công xây dựng đã tham gia đấu thầu các dự án xây dựng các nhà máy xử lý, lắp đặt mạng lưới cấp nước. Bên cạnh đó nhiều Công ty chuyên sản xuất cấp nước cũng thành lập các đơn vị tư vấn, thi công xây lắp cấp nước, do đó các đơn vị hội viên trong Chi hội thuộc lĩnh vực Tư vấn thiết kế - Thi công xây lắp cũng gặp không ít khó khăn trong việc tìm kiếm, tham gia đấu thầu các công trình.

Khắc phục những khó khăn trên các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực tư vấn thiết kế và thi công xây lắp đã nỗ lực nâng cao năng lực hoạt động, đầu tư đội ngũ cán bộ, đầu tư máy móc thiết bị chuyên ngành để tham gia các dự án lớn như: Tổng Công ty Wiwaseen; Công ty Viwase, Công ty CP tư vấn và đầu tư xây dựng hạ tầng Phương Đông, Công ty CPXD và lắp máy điện nước Hà Nội... các đơn vị này đã và đang tham gia các dự án lớn tại các tỉnh, thành phố trong cả nước....

3. Lĩnh vực sản xuất - cung cấp vật tư, thiết bị chuyên ngành.

Đáp ứng nhu cầu phát triển, nâng cao năng lực cấp nước của các đơn vị trong Lĩnh vực sản xuất cấp nước, các đơn vị Hội viên hoạt động trong Lĩnh vực sản xuất - cung cấp vật tư, thiết bị chuyên ngành đã mạnh dạn đầu tư dây chuyền công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ công nhân kỹ thuật để sản xuất đưa ra thị trường các sản phẩm vật tư, thiết bị đáp ứng được nhu cầu trong nước, thay thế vật tư, thiết bị nhập khẩu.

Các đơn vị sản xuất và cung cấp ống, phụ kiện nhựa đã xây dựng được thương hiệu, uy tín trên thị trường với nhiều chủng loại, mẫu mã đa dạng, chất lượng đảm bảo.

Các đơn vị thương mại, đã đẩy mạnh việc tìm kiếm nguồn hàng có chất lượng tốt, tính năng ưu việt của các hãng có uy tín trên thế giới để đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành nước trong nước

Các đơn vị tư vấn, xây dựng, sản xuất - cung cấp vật tư thiết bị chuyên ngành đã thực sự góp phần thúc đẩy việc đổi mới công nghệ, hiện đại hoá lĩnh vực sản xuất cấp nước và góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành nước.

4. Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề.

Chủ động chuẩn bị nội dung và tìm nguồn kinh phí để tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề, lắng nghe các ý kiến, kiến nghị, tham khảo thêm kinh nghiệm của các đơn vị để cân nhắc thêm lộ trình cho phù hợp về tình hình cổ phần hóa ngành nước; ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin hỗ trợ quản lý thông qua các buổi hội thảo, giới thiệu về công nghệ mới được ứng dụng trong ngành nước; an ninh nguồn nước trong điều kiện biến đổi khí hậu và kế hoạch cấp nước an toàn.

Triển khai chương trình cấp nước an toàn đến các hội viên trong chi hội để từng bước thực hiện tại đơn vị.

Cấp nước đảm bảo nhu cầu sử dụng nước của các địa phương, tích cực đầu tư nâng công suất các nhà máy nước, mở rộng mạng lưới cấp nước, đấu nối mới tăng độ phủ cấp nước.

Tích cực thực hiện các chương trình, biện pháp chống thất thoát, từng bước giảm tỷ lệ thất thoát nước. 

Ứng dụng các công nghệ mới, tiến bộ KHKT vào sản xuất cấp nước nhằm giảm chi phí đầu tư, chi phí vận hành nhưng vẫn đáp ứng được mục tiêu nâng cao công suất, chất lượng nước, nâng cao năng lực quản lý mạng lưới cấp nước tại các đơn vị hội viên…

Trao đổi các giải pháp tiết kiệm điện, các đơn vị tăng cường đầu tư máy phát điện và sử dụng thiết bị tiết kiệm điện như: Lắp đặt Biến tần trung/hạ thế, thay thế thiết bị có công suất nhỏ phù hợp công suất cấp nước hiện có.

Tham gia chương trình đào tạo cán bộ quản lý ngành cấp nước do Hội cấp thoát nước Việt Nam tổ chức.

5. Văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao

Chi hội đã tổ chức thành công Hội thao - Hội diễn lần thứ IX năm 2019, thu hút được nhiều đơn vị tham gia thi đấu, đây là dịp để CBCNV được giao lưu, học hỏi và tăng cường mối đoàn kết giữa các đơn vị, thúc đẩy hoạt động Chi hội ngày càng phát triển. Nằm trong chương trình Hội thao - Hội diễn, các hội thảo, mạn đàm chuyên đề đã được kết hợp tổ chức (vòng đấu loại 02 bảng tại Nam Định, Phú Thọ và chung kết tại Thành phố Hà Nội).

6. Các hoạt động ủng hộ, hỗ trợ, thăm hỏi.

Chi hội đã chú trọng công tác đền ơn đáp nghĩa, các đơn vị đăng ký với các tổ chức cá nhân để Thường trực chi hội trao quà. Qua đó thể hiện được vai trò, vị trí và trách nhiệm của Chi hội đối với xã hội. Ủng hộ cho quĩ nhân đạo từ thiện của Thành phố Hà Nội, Phú Thọ, Nam Định nhân dịp tổ chức vòng bảng và chung kết Hội thao - Hội diễn văn nghệ của Chi hội.

Công tác thăm hỏi, động viên các gia đình hiếu được BCH Chi hội thực hiện chu đáo. Thực hiện tốt việc thông báo bằng điện thoại, tin nhắn của Thường trực Chi hội đến các lãnh đạo các đơn vị hội viên.

Một số tồn tại

Chế độ báo cáo về kết quả SXKD, về hoạt động của hội viên còn chậm, chưa kịp thời. Một số đơn vị tư vấn, sản xuất cung cấp vật tư, xây dựng chưa nộp báo cáo kết quả SXKD theo yêu cầu của Thường trực Chi hội.

Kinh tế suy thoái chung do vậy một số đơn vị gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp tư vấn, xây lắp, thương mại và cung cấp vật tư thiết bị bị ảnh hưởng lớn, hàng tồn kho nhiều.

Sự phối hợp, liên kết, hỗ trợ kinh nghiệm giữa các đơn vị hội viên còn hạn chế.

Giá nước bị khống chế, chưa theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp còn bị động, nhiều Công ty chưa được tính đúng tính đủ giá nước và chưa được điều chỉnh giá nước kịp thời do vậy ảnh hưởng đến đời sống cán bộ công nhân viên, kìm hãm sự phát triển doanh nghiệp và không đủ nguồn kinh phí tái đầu tư mở rộng sản xuất.

Công tác quản lý: Một số đơn vị chưa chú trọng đổi mới công tác quản lý, áp dụng công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý, điều hành còn ít.

Phương hướng hoạt động trong nhiệm kỳ 2020 -2022

1.Về cấp nước, bảo đảm dịch vụ cấp nước an toàn, bền vững. Sản phẩm của các công ty hội viên đạt mục tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng nước ăn uống sinh hoạt trên tất cả các hệ thống do công ty vận hành quản lý. Đến năm 2022, 100% các công ty cấp nước thực hiện hiệu quả kế hoạch cấp nước an toàn. Tỷ lệ thất thoát bình quân trong tất cả các đơn vị hội viên dưới 15%.

2.Về sản xuất, kinh doanh vật tư thiết bị chuyên ngành, tư vấn kỹ thuật và xây dựng, đến năm 2022 các doanh nghiệp hội viên phấn đấu cung cấp cho ngành và cho xã hội các sản phẩm chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển, nhu cầu thay thế trong nước và xuất khẩu, phấn đấu 70% sản phẩm trong nước đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Chủ động trong triển khai thực hiện các trương trình đào tạo kỹ năng quản lý và đào tạo nghề cho tất cả các đơn vị hội viên cung cấp dịch vụ cấp nước.

Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ công nhân viên trên cơ sở tăng năng suất lao động và cung cấp dịch vụ tiên tiến. Hình thành văn hóa doanh nghiệp. Các đơn vị hội viên phấn đấu không còn các gia đình người lao động thuộc diện hộ nghèo tại địa phương.

3.Giải pháp thực hiện

3.1.Tham gia đề xuất cải cách khung chính sách

Tổ chức thu thập ý kiến của các đơn vị Hội viên về khung chính sách hiện hành; Nghiên cứu, tổng hợp những thuận lợi, khó khăn và cả những vướng mắc trong quá trình thực hiện các Nghị định về cấp nước, thoát nước, cổ phần hóa, các thông tư về khung giá dịch vụ, Nghị định quản lý đầu tư xây dựng, Quy chế đấu thầu, v.v… thông qua Trung ương hội, kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước, với chính quyền địa phương cấp tỉnh và chính phủ về nguyện vọng chính đáng của hội viên, về cơ chế chính sách để tổ chức và quản lý ngành nước phù hợp với cơ chế thị trường. Đề xuất giải pháp thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngành nước tại đô thị và nông thôn.

3.2. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ

Tổ chức thông tin tuyên truyền, hội nghị, hội thảo khoa học kỹ thuật và quản lý. Tập huấn, phổ biến kiến thức về khoa học kỹ thuật chuyên ngành về công nghệ mới, về sản xuất kinh doanh trong hội viên và cộng đồng dân cư. Khuyến khích giúp đỡ hội viên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Phối hợp với các tổ chức trong nước và quốc tế đào tạo nguồn nhân lực cho ngành cấp nước, đặc biệt các tỉnh vùng sâu, vùng xa. 

Có biện pháp động viên, khen thưởng để thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng các phát minh, sáng kiến, chú trọng đặc biệt việc ứng dụng công nghệ thông tin trong lãnh đạo, quản lý, vận hành quản lý ngành nước. Nghiên cứu, đề xuất xây dựng các phần mềm dùng chung cho Chi hội về nghiệp vụ chuyên môn trong sản xuất kinh doanh ngành nước như Tổng đài chăm sóc khách hàng, hóa đơn điện tử, ghi thu tiền nước bằng thiết bị di động, quản lý tài sản, ứng dụng GIS, phân vùng tách mạng và các dịch vụ hỗ trợ.

3.3. Tăng cường sản xuất vật tư, thiết bị chuyên ngành

Tạo nên mối liên kết khoa học - công nghệ  - sản xuất giữa các hội viên, giữa các Công ty sản xuất và cung cấp nước sạch, các đơn vị tư vấn thiết kế, thi công xây lắp, các nhà sản xuất kinh doanh vật tư thiết bị chuyên ngành nước và nhằm mang lại lợi ích cho mỗi hội viên và tạo điều kiện thuận lợi cho công nghiệp chế tạo thiết bị phụ tùng và vật tư ngành nước phát triển.

Các nhà sản xuất là các đơn vị hội viên của Hội tăng cường các biện pháp kiểm soát chất lượng, bảo đảm các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, góp phần nâng cao hiệu quả cho các dự án đầu tư xây dựng và bảo đảm an toàn trong quá trình vận hành khai thác. Tổ chức các hoạt động giới thiệu sản phẩm chuyên ngành sản xuất trong nước như triển lãm, hội thảo, bình chọn sản phẩm chất lượng, tạo điều kiện cho việc phát triển và hình thành công nghiệp sản xuất vật tư, thiết bị chuyên ngành trong nước ổn định và bền vững. Vận động thực hiện liên kết trong Chi hội, các đơn vị hoạt động sản xuất cấp nước ưu tiên sử dụng vật tư, phụ tùng, thiết bị chuyên ngành do các Hội viên trong Chi hội sản xuất và phân phối.

3.4. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực.


Tiếp tục đổi mới các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực, chủ động trong triển khai thực hiện các chương trình đào tạo kỹ năng quản lý, đổi mới công nghệ, vật liệu xây dựng, giới thiệu các kinh nghiệm trong quản lý tài chính và đào tạo từng nhóm công việc cụ thể ( kế toán, quản lý mạng lưới, quản lý ghi thu, vận hành nhà máy, quản lý chất lượng nước, nhân viên giao dịch khách hàng, nhân viên ghi thu tiền nước) thông qua hình thức tổ chức các buổi chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm tại các đơn vị hội viên và chính sách liên quan ngành nước. Đồng thời tổ chức hội thảo, hội nghị tổng kết đánh giá công tác triển khai một cách thiết thực, hiệu quả.  Ảnh Nguyễn Thị Minh Phượng

3.5.  Nâng cao đời sống vật chất - tinh thần, xây dựng văn hóa doanh  nghiệp.

Duy trì các hoạt động giao lưu văn nghệ thể thao trong Chi hội và giữa các Chi  hội. Xây dựng các sổ tay văn hóa doanh nghiệp và quảng bá các kết quả đạt được từ các doanh nghiệp điển hình đến các đơn vị hội viên.

Tăng cường các hoạt động xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ chia sẻ khó khăn để đến năm 2022, không còn có cán bộ công nhân viên diện hộ nghèo trong các đơn vị hội viên./.

MINH PHAN


 

Tags cấp nước cấp nước miền Bắc

Các tin khác

Sau khi bão số 3 (bão Yagi) đi qua, nhiều tỉnh, thành miền Bắc đang đối mặt với hàng loạt hậu quả nghiêm trọng.

Theo WHO, sức khỏe của 99% dân số trên thế giới đang bị đe dọa khi hàng tỷ người vẫn đang hít thở không khí không lành mạnh.

Những ngày này, bên cạnh tập trung khắc phục các thiệt hại, sạt lở, úng ngập do ảnh hưởng của bão số 3, công tác thu gom, xử lý rác thải, bảo đảm vệ sinh môi trường được các đơn vị, địa phương và người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Giang chú trọng.

Theo Cục Quản lý đê điều và Phòng chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), tính đến 18h ngày 12/9, đã có 336 người chết, mất tích (gồm 233 người chết và 103 người mất tích) do lũ quét, sạt lở đất và ảnh hưởng của bão số 3.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục