Khi đi tìm một giải pháp thiết thực và triệt để, chúng ta phải quay lại đi tìm nguyên nhân gốc rễ của phá rừng và suy thoái rừng. Những giải pháp và cơ chế mà hiện nay chúng ta đang áp dụng chỉ giải quyết được một số vấn đề nhỏ lẻ mà chưa thực sự giải quyết các nguyên nhân gốc rễ. Tôi nghĩ để giải quyết được vấn đề này, Việt Nam cần giải pháp tổng thể, có thể dẫn đến sự thay đổi về mặt hệ thống. Ngoài ra cần có cam kết thực sự để giải quyết các nguyên nhân của mất và suy thoái rừng từ tất cả các ngành, những thay đổi rộng hơn trong khung chính sách để tạo ra các động lực giúp tránh mất và suy thoái rừng, sự hợp tác liên ngành và nguồn tài chính bền vững cho bảo vệ và phát triển rừng.
Một điều quan trọng nữa cần nhìn lại đó là xác định đúng và đủ về vị thế và vai trò của ngành lâm nghiệp. Hiện nay vai trò và đóng góp của ngành lâm nghiệp trong GDP chưa được tính toán đầy đủ và toàn diện. Các sản phẩm xuất khâu từ gỗ và lâm sản vốn có đóng góp chủ đạo của ngành lâm nghiệp lại được tính vào đóng góp của ngành Công thương. Chúng ta cũng chưa tính đủ giá trị mà rừng đem lại, đó là giữ cho đất không bị xói mòn, điều hòa không khí, đảm bảo cung cấp số lượng và chất lượng nước nhiễm. Đến khi có chuyện xảy ra thì người ta mới bắt đầu tính đến bài toán về rừng và nhận thấy những mất mát khi không có rừng. Nếu chúng ta xác định ngành lâm nghiệp đóng vai trò chủ chốt trong phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, giảm thiểu phát thải thì rõ ràng cần có nguồn ngân sách đầu tư xứng đáng, chính sách và thực thi pháp luật hiệu quả để bảo vệ và phát triển rừng.
Các nguyên nhân dẫn đến phá rừng và suy thoái rừng phần lớn đến từ ngoài ngành lâm nghiệp nên để có thể giải quyết các nguyên nhân này cần có sự phối hợp đa ngành. Tuy nhiên, việc phối hợp đa ngành này không thể chỉ do một bộ ngành quyết định mà phải có quy hoạch tổng thể quốc gia nhằm đảm bảo giải pháp chiến lược phát triển của mỗi ngành hài hòa với nhau và khi xếp cạnh nhau thì không có sự mâu thuẫn giữa các ngành. Ví dụ như Bộ NN&PTNT xây dựng chiến lược phát triển lâm nghiệp, mở rộng diện tích rừng nhưng các ngành khác lại cho rằng vẫn cần thêm đất để mở rộng diện tích xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng diện tích cây trồng nông nghiệp, xây dựng các nhà máy năng lượng, chế biến… Vì thế cần một kế hoạch tổng thể làm cơ sở như kế hoạch phát triển tài nguyên thiên nhiên của quốc gia chẳng hạn, nó được xây dựng trên thảo luận và đồng thuận giữa nhiều bên liên quan để có thể phân bổ nguồn tài nguyên hợp lý.
Bên cạnh đó, việc lập quy hoạch cũng cần tính đến định hướng phát triển chung của đất nước là gì, nếu đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên đầu với việc gia tăng diện tích sản phẩm nông nghiệp thì mục tiêu đảm bảo diện tích rừng hiện sẽ khó có thể đạt được. Khi nghĩ đến rừng, người ta thường đặt câu hỏi "ở Việt Nam, diện tích và tỉ lệ che phủ rừng bao nhiêu là đủ?”. Câu hỏi đó chưa đúng và đủ bởi thực chất phải hỏi "mục tiêu và ưu tiên của Việt Nam là gì?” và định hướng vai trò của ngành lâm nghiệp của Việt Nam trong bối cảnh đó như thế nào. Trả lời được câu hỏi ấy thì chúng ta mới biết được mục tiêu bảo vệ rừng và chống suy thoái rừng là như thế nào. Mặc dù hài hòa các mục tiêu luôn là mong ước của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam, nhưng thực tế cho thấy khi thực hiện mục tiêu này thì sẽ phải đánh đổi mục tiêu kia.
Vậy chúng ta có thể làm gì để bớt phải đánh đổi?
Tôi nghĩ các quyết định đều cần dựa trên những ưu tiên của quốc gia và hài hòa giữa các mục tiêu phát triển, thực trạng rừng của Việt Nam hiện nay cũng như các dự báo về thay đổi tỉ lệ che phủ rừng trong tương lai, xu thế phát triển của thị trường các sản phẩm lâm sản và lâm sản ngoài gỗ trong và ngoài nước, tình hình biến động chính trị, kinh tế, xã hội trên toàn cầu, năng lực của các doanh nghiệp trong nước và thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng, trình độ năng lực và nguồn đào tạo nhân lực, ngân sách để bảo vệ phát triển rừng.
Song song với đó, Việt Nam cũng cần giải đáp một số vấn đề: có cần thiết phải tăng tỉ lệ che phủ rừng không và mục đích của việc tăng tỉ lệ che phủ rừng là gì? Giải pháp khác và chi phí cơ hội của diện tích rừng muốn chuyển đổi thành đất rừng để tăng tỉ lệ che phủ rừng? Liệu diện tích rừng và đất đang suy thoái có thể trở thành rừng được không? Liệu diện tích đất đang muốn chuyển thành rừng để nâng cao tỉ lệ che phủ rừng có được quy hoạch hay sử dụng bởi các ngành khác? Việc đề cập tới con số tỉ lệ che phủ rừng chỉ là bước đầu tiên, điều quan trọng là tỉ lệ che phủ rừng đối với các loại rừng, mục đích sử dụng rừng, người quản lí rừng, chất lượng và trữ lượng rừng... Việt Nam cũng cần đối chiếu với kế hoạch sử dụng đất, chính sách phát triển của từng ngành có liên quan để đảm bảo tính khả thi của tỉ lệ che phủ rừng đề ra.
Hiện nay Việt Nam đang ngày càng hội nhập với rất nhiều hiệp định thương mại quốc tế. Những yêu cầu mới từ các hiệp định quốc tế này có ảnh hưởng đến chính sách bảo vệ rừng và chống suy thoái rừng?
Việc hội nhập quốc tế như hiện nay có hai khía cạnh, một mặt tạo điều kiện cho chúng ta tiếp cận thị trường mới và nguồn tài chính bổ sung cho ngành lâm nghiệp, khuyến khích các quốc gia phải có những cam kết và chính sách bảo vệ và phát triển rừng hiệu quả hơn, mặt khác buộc chúng ta phải đáp ứng được những yêu cầu mà thị trường và yêu cầu quốc tế đặt ra. Bước đầu, các yêu cầu về quản trị lâm nghiệp, bình đẳng giới, các biện pháp đảm bảo an toàn, nâng cao sự tham gia của người dân trong xây dựng và triển khai chính sách đã khiến chính sách lâm nghiệp Việt Nam hoàn thiện hơn, ví dụ yêu cầu của thị trường gỗ hợp pháp tạo ra những thay đổi tích cực trong chính sách liên quan kiểm soát gỗ hợp pháp của Việt Nam.
Ngoài ra, trong những năm gần đây trên toàn cầu đã có hàng trăm công ty và tập đoàn cam kết kinh doanh không phá rừng và suy thoái rừng thông qua các hỗ trợ tài chính và hoàn thiện chuỗi cung ứng của mình. Việt Nam có rất nhiều ngành nghề, các chuỗi cung cấp liên quan đến thị trường quốc tế như sản phẩm dệt may, thời trang, thực phẩm… đều được yêu cầu là sản phẩm không liên quan đến việc phá rừng, ví dụ việc cung cấp nguyên liệu làm mỹ phẩm chẳng hạn, nếu bị phát hiện ra nguyên liệu này được chiết xuất từ cây trồng trên đất phá rừng thì sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng. Tất cả các xu thế thế giới này đều tạo ra những động lực thay đổi của ngành lâm nghiệp.
Tuy nhiên cần lưu ý là trong quá trình quốc tế và hội nhập hóa này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như cộng đồng địa phương sẽ gặp nhiều khó khăn do hạn chế về nguồn vốn, năng lực cạnh tranh và tiếp cận thông tin nên rất cần sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức xã hội.
Vậy chúng ta phải thay đổi rất nhiều?
Có câu hỏi thực sự cần suy ngẫm "chúng ta nên đầu tư vào số lượng hay chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm không?”. Hiện Việt Nam và nhiều quốc gia khác có xu thế tập trung vào sản xuất nguyên liệu gỗ thô với giá rất thấp thì các nước châu Âu lại tập trung phát triển KH&CN để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm từ rừng, ví dụ bán một lọ kem dưỡng da chiết xuất từ thân, lá và hoa rừng đã thu lại lợi nhuận cao hơn rất nhiều lần rồi. Phải chăng chúng ta nên suy ngẫm lại để làm sao có thể nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, vừa có thu nhập tốt mà lại không tốn nhiều tài nguyên? Tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải có định hướng thị trường tốt và đầu tư vào nghiên cứu ứng dụng KH&CN một cách xứng đáng.
Nếu như thế, vai trò của khoa học từ cấp độ phát triển sản phẩm đến xây dựng chính sách chiến lược phát triển phải được coi trọng?
Đúng vậy. Tất cả những điều đó phải xuất phát từ nghiên cứu bài bản, có bằng chứng khoa học làm cơ sở để xây dựng chính sách phát triển. Chúng ta có thể tận dụng được những ưu thế của khoa học ở mọi chỗ. Ví dụ như trong bảo vệ rừng, trước đây chúng ta không theo dõi được chuyện phá rừng một cách triệt để như mong muốn nhưng bây giờ ứng dụng công nghệ viễn thám, sử dụng hệ thống phần mềm trong điện thoại thông minh, các bên có thể theo dõi và biết hôm nay diện tích bị mất. Mặt khác, các nhà khoa học có thể tư vấn nên trồng rừng ở đâu, trồng như thế nào để hiệu quả và đáp ứng các mục tiêu đa dạng như bảo vệ nguồn nước, giảm lũ lụt xói mòn, đảm bảo việc sinh kế của các cộng đồng bản địa như vừa có thu nhập ngắn ngày, vừa trồng rừng, bảo vệ rừng một cách tốt hơn… Các nghiên cứu bài bản trong việc đánh giá khó khăn và thuận lợi trong việc thực hiện chính sách lâm nghiệp trong thực tiễn cũng sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách và các bên có liên quan có các thông tin và bài học để hoàn thiện chương trình và chính sách của mình. Tôi nghĩ rằng, vai trò của nghiên cứu khoa học và ứng dụng khoa học công nghệ là rất quan trọng trong việc hỗ trợ xây dựng các giải pháp chống phá rừng và suy thoái rừng là rất quan trọng.
Cảm ơn chị!
Thanh Nhàn/Tạp chí Tia sáng