Ảnh: Internet
1 Vừa qua, bằng Quyết định số 1136/QĐ-BXD ngày 25/8/2020, Bộ Xây dựng đã chính thức khởi động soạn thảo Định hướng phát triển Kiến trúc Việt Nam đến 2030 tầm nhìn 2050, với Ban soạn thảo là các nhà quản lý và chuyên gia kiến trúc đầy kinh nghiệm của Bộ Xây dựng và cả của Hội KTS Việt Nam. Đây là công việc hệ trọng, liên quan, góp phần quyết định đến sự phát triển của nền Kiến trúc dân tộc trong thời kỳ phát triển mới của Đất nước với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (gọi tắt là 4.0).
Tôi nhấn mạnh đến cụm từ "nền Kiến trúc dân tộc”, bởi thế giới ngày hôm nay là thế giới phẳng (với sự phát triển của Internet và mạng xã hội), các quốc gia hội nhập rất sâu rộng và cởi mở trên cơ sở bình đẳng, hợp tác, tôn trọng lẫn nhau, hai bên cùng có lợi, trong đó có hội nhập văn hóa. Văn hóa bản địa, bản sắc văn hóa dân tộc được thế giới đề cao và vinh danh. Nhưng cũng chưa bao giờ văn hóa ngoại lai có điều kiện dễ dàng xâm nhập, chèn ép, làm phai nhạt bản sắc văn hóa, bản sắc kiến trúc như bây giờ.
Với Việt Nam, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là mục tiêu chính trị mà Đảng ta đã đề ra cho phát triển văn hóa, văn nghệ bắt đầu từ cách đây 78 năm với Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) và đặc biệt, là Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII cách đây 23 năm về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc (1998) và được làm rõ hơn, sâu sắc hơn trong Nghị quyết 33 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (2014).
V ì thế, phải chăng, xây dựng nền Kiến trúc Việt Nam hiện đại mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc vẫn là cái đích mà chúng ta phải đến, cho dù con đường đó không phải là dễ dàng. Định hướng sắp tới sẽ phải đặt ra được các giải pháp cụ thể, kế hoạch cụ thể để thực hiện, chứ không phải là một bản định hướng chung chung, trách nhiệm chung chung mang tính khẩu hiệu, kêu gọi rồi cuối cùng không biết cơ quan nào, tổ chức nào chịu trách nhiệm.
Còn nhớ, cách đây 19 năm, ngày 03/9/2002, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 112/2002-TTg phê duyệt Định hướng phát triển Kiến trúc Việt Nam đến 2020. Trong nội dung quyết định có mục tiêu tổng quát là "nâng cao chất lượng kiến trúc, tạo lập môi trường cư trú bền vững, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển văn hóa, kinh tế-xã hội trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, tạo tiền đề vững chắc cho quá trình hình thành và phát triển kiến trúc Việt Nam hiện đại, giàu bản sắc dân tộc.” và quan điểm "Kiến trúc phục vụ, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Phát triển kiến trúc phải phù hợp với đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc; phù hợp với điều kiện tự nhiên, góp phần bảo vệ môi trường, giữ gìn cân bằng sinh thái; phục vụ nhân dân, coi trọng lợi ích của toàn xã hội; áp dụng có chọn lọc các tiến bộ khoa học, công nghệ hiện đại và thích hợp; đảm bảo kiến trúc phát triển bền vững”.
Chính vì thế, cần đặt ra câu hỏi, vì sao sau 20 năm thực hiện Định hướng này, mà đến hôm nay lại chưa có một tổng kết nghiêm túc, khoa học để đánh giá thành công và cả chưa thành công trong việc thực hiện Định hướng mà Thủ tướng đã phê duyệt, để từ đó đề ra cơ sở khoa học xác định mục tiêu và nội dung mới cho Định hướng phát triển Kiến trúc Việt Nam sắp tới.
Khi khép lại Định hướng phát triển Kiến trúc Việt Nam giai đoạn 2000-2020, thì trong khoảng 20 năm đó, đất nước ta đã có rất nhiều thay đổi. Tốc độ đô thị hóa đạt gần 40%; hệ thống đô thị phát triển với khoảng 840 đô thị lớn nhỏ trải khắp từ Đông sang Tây, từ biên giới phía Bắc đến cực Nam của Tổ quốc. Chương trình nông thôn mới hoàn thành trước 2 năm, làm thay đổi diện mạo một phần khu vực nông thôn theo hướng hiện đại hóa và công nghiệp xanh, nâng cao thu nhập đời sống nông dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và đô thị. Kiến trúc nhà ở phát triển đáp ứng phần nào nhu cầu cấp bách về chỗ ở của nhân dân, đặc biệt là người thu nhập thấp ở đô thị và các khu công nghiệp. Các khu đô thị mới do các doanh nghiệp BĐS tư nhân đầu tư đã đem đến những sắc thái kiến trúc tươi mới, hiện đại cho bộ mặt đô thị. Kiến trúc xanh, kiến trúc sinh thái tiết kiệm năng lượng, sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường đã và đang trở thành hướng phát triển của kiến trúc, của khoa học công nghệ, của ngành vật liệu xây dựng và sáng tác của KTS. Nhưng trong giai đoạn này, đặc biệt là khoảng 10 năm trở lại đây, công tác quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị đã bộc lộ nhiều bất cập trước biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, tài nguyên dần cạn kiệt, đặc biệt là quỹ đất, quy hoạch thiếu tính dự báo hoặc dự báo sai, duy ý chí, xa rời thực tiễn phát triển của đời sống xã hội và thiếu kịch bản ứng phó với thiên tai, đại dịch. Sự biến đổi phức tạp của khí hậu đã làm tăng cường độ mưa, bão, lũ ở nước ta, như vừa qua, đã nhấn chìm hàng trăm làng xóm, hàng vạn ngôi nhà ở nông thôn miền Trung chìm trong nước.
Lần đầu tiên, trong vòng 60 năm trở lại đây, thiên tai đã gây ngập lụt cả một tỉnh là Quảng Bình. Nhiều điểm dân cư vùng núi miền Trung và Bắc bộ bị lũ quét, sạt lở san phẳng như ở Quảng Nam, hay ở Yên Bái cách đây ba năm. Người dân ven sông vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối phó với nước biển dâng, sạt lở bờ kè, đe dọa nhà cửa và cuộc sống. Kiến trúc đô thị manh mún, thiếu bản sắc địa phương. Kiến trúc nhà ở nông thôn bị lãng quên, thậm chí ở nơi này nơi khác, khái niệm "nông thôn mới” bị hiểu bằng việc làm mới kiến trúc nông thôn, đô thị hóa nông thôn, biến nông thôn thành bãi rác thải của kiến trúc đô thị. Kiến trúc nông thôn truyền thống và văn hóa làng đang đứng trước nguy cơ dần biến mất. Đã xuất hiện ngày càng nhiều cái gọi là "dự án du lịch tâm linh” với việc để tư nhân sử dụng (và cả chiếm dụng) hàng trăm héc-ta đất để tạo ra những quần thể kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng mới rất to lớn, bề thế, phục vụ mục đích thương mại, xa lạ với kiến trúc tâm linh truyền thống của dân tộc?!... Các dự án xây dựng resort, nghỉ dưỡng và sân golf phát triển ồ ạt chiếm lĩnh các vị trí có cảnh quan thiên nhiên đẹp nhất, hấp dẫn du khách nhất rải rác trên suốt hơn 3.000 km bờ biển nước ta, bất chấp những quy luật sinh tồn tự nhiên bền vững của hệ sinh thái biển và lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, kể cả về an ninh quốc phòng. Nhiều khu vực rừng nguyên sinh, rừng phòng hộ, rừng thông cũng bị triệt để khai thác hay chuẩn bị khai thác bằng mọi giá với cái gọi là "đánh thức di sản”, "đánh thức tiềm năng du lịch”, như ở Ba Vì, Tam Đảo, Đà Lạt và một vài nơi khác. Nhiều chủ đầu tư BĐS lớn đã và đang bằng cách này, cách khác can thiệp vào việc "điều chỉnh quy hoạch” của Nhà nước vì mục đích lợi nhuận?! Tất cả những chuyển động đó có tác động sâu sắc đến sáng tạo của KTS và Định hướng phát triển kiến trúc của đất nước.
Cũng trong 20 năm qua, dù còn nhiều hạn chế bởi chưa có Luật Kiến trúc, nhiều bất cập trong quản lý kiến trúc, công trình được xây dựng nhiều, nhưng hiếm có tác phẩm kiến trúc... thì cùng với sự phát triển chung của đất nước trong nền nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, KTS Việt Nam đã phát triển mạnh về số lượng và có nhiều thuận lợi hơn trong sáng tác, trong hành nghề. Khoảng mươi năm gần đây, lĩnh vực kiến trúc nội thất (kéo theo nghề kinh doanh các mặt hàng nội thất) và kiến trúc cảnh quan (kéo theo nghề trồng cây cảnh, đá cảnh, thi công bể cả cảnh…) phát triển.
Luật Doanh nghiệp thông thoáng cho phép hàng ngàn doanh nghiệp tư vấn kiến trúc ra đời. Rất nhiều KTS trẻ ra trường vài ba năm đã có thể lập công ty riêng và trở thành giám đốc, tổng giám đốc một cách hoành tráng. Hội nhập quốc tế sâu rộng tạo điều kiện để KTS chúng ta cọ xát, học hỏi, tranh tài cùng KTS nhiều nước Á, Âu làm việc tại Việt Nam thông qua các cuộc thi tuyển kiến trúc. Kinh tế thị trường bắt buộc KTS phải thích ứng. Việc KTS này, nhóm KTS kia được các doanh nghiệp tư nhân yêu thích, đích thân mời thực hiện các dự án kiến trúc lớn không qua thi tuyển đã không còn xa lạ. Nhiều KTS đã thành danh, có nhiều tác phẩm được giải thưởng kiến trúc quốc gia và quốc tế. Vai trò của KTS đã được xã hội công nhận. Người dân đã biết tìm đến các văn phòng tư vấn khi xây dựng hay sửa chữa cải tạo ngôi nhà ở của mình. Thậm chí nhiều lúc, nhiều nơi KTS còn được giới truyền thông săn đón chẳng kém các nghệ sĩ nổi tiếng trong giới showbiz.
2 Ngày hôm nay, chúng ta chuẩn bị cho ra đời một Định hướng phát triển Kiến trúc Việt Nam mới trong điều kiện thực thi Luật Kiến trúc và các văn bản pháp lý dưới Luật kèm theo như Nghị định, Thông tư…, cùng các nội dung cần thiết phục vụ việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và cả đạo đức nghề nghiệp cho KTS, giúp họ vững tin vượt qua các kỳ sát hạch công bằng, vô tư và nghiêm cẩn (hy vọng là thế) để có trong tay tấm bằng chứng chỉ hành nghề danh giá. Và với việc thực thi Luật Kiến trúc, sự đổi mới trong quản lý nhà nước về kiến trúc, lại có một đội ngũ những KTS hành nghề tài năng (được lựa chọn qua các kỳ cấp chứng chỉ hành nghề), thì trong tương lai gần (khoảng 10-15 năm hoặc dài hơn nữa), nền Kiến trúc nước nhà liệu có thực sự đổi mới hơn, ngăn nắp hơn, đàng hoàng hơn, đẹp hơn, hiện đại hơn, giàu bản sắc hơn để sánh vai với các nền kiến trúc tiên tiến trên thế giới? Đây là điều xã hội mong đợi, chờ giới KTS trả lời.
Trong Dự thảo Xây dựng Chiến lược phát triển kính tế- xã hội 10 năm 2021-2030 (có mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 và 2045) trình Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ "Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế, năm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội để phát triển kinh tế số, xã hội số; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát huy tối đalợi thế của các vùng, miền; phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu…”.
Như vậy có thể thấy, phát triển kiến trúc giai đoạn tới không nằm ngoài quan điểm chỉ đạo của Đảng. Cách mạng 4.0 với sự phát triển như vũ bão của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong bối cảnh thiên tai ngày càng khốc liệt do biến đổi khí hậu và đại dịch Covid-19 xảy ra trên toàn cầu sẽ tác động rất lớn đến sự hình thành các xu hướng kiến trúc, đến chính sách phát triển và quản lý kiến trúc, đến các bộ quy chuẩn, tiêu chuẩn trong thiết kế kiến trúc và trong công tác lập quy hoạch. Sẽ xuất hiện ngày càng nhiều đô thị thông minh, khu đô thị thông minh,và cả kiến trúc thông minh sử dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo để quản trị, vận hành hoạt động của đô thị từ quản lý, điều hành hệ thống giao thông an toàn; y tế phòng chống dịch… cho đến các dịch vụ mua bán trực tuyến thay vì đổ xô đến các trung tâm thương mại siêu thị. Công nghệ số và đại dịch cho phép (và cả bắt buộc) người ta làm việc tại nhà hay tại các văn phòng ảo. Trí tuệ nhân tạo thay thế nhiều công việc của một công chức, viên chức truyền thống trong lĩnh vực ngân hành, dịch vụ công… và cả trong thiết kế kiến trúc. Các Văn phòng KTS chỉ với hơn chục người sẽ thay thế các công ty, tập đoàn tư vấn với hàng trăm nhân sự, quản lý cồng kềnh nặng tính hành chính như hiện nay. Các kho hàng của Amazon và E.Bay sẽ dần thay thế các trung tâm thương mại hiện đại, hoành tráng bởi hệ thống bán hàng trực tuyến, giao hàng tận nhà với máy bay không người lái, và đội ngũ shipper chuyên nghiệp. Các trụ sở công quyền cũng không còn to lớn bề thế như trụ sở các Bộ, ngành bây giờ (bởi chủ trương giảm biên chế của Nhà nước) và công chức thời 4.0 dù ngồi ở bất kỳ chỗ nào, nơi nào (kể cả ngoài biên giới quốc gia) cũng có thể trao đổi, nhận nhiệm vụ, truyền đạt mệnh lệnh hay báo cáo kết quả. Và như thế tiêu chuẩn công sở sẽ phải thay đổi. Hay cả các trung tâm hành chính tập trung liệu sẽ phải trở lại dạng phân tán cho phù hợp với đại dịch và với điều kiện của nền công nghiệp 4.0. Trong quy hoạch, khái niệm truyền thống theo kiểu "tựa núi - nhìn sông” khi bố trí các điểm dân cư miền núi, vùng nông thôn ven sông, ven biển... liệu có còn giá trị? Hay phát triển đô thị lớn với diện tích đến nghìn ki-lô-mét vuông, số dân vài triệu người liệu có còn phù hợp, hay đây là thời kỳ mà các đô thị vừa và nhỏ lên ngôi.
3 Bài viết của tôi chỉ là những gợi ý rất nhỏ bàn về một cái rất lớn là Định hướng phát triển của một nền kiến trúc. Sẽ còn rất nhiều vấn đề phải bàn khi xây dựng Định hướng với mục tiêu là xây dựng nền Kiến trúc Việt Nam hiện đại giàu bản sắc văn hóa dân tộc như các Nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ, với một đội ngũ các KTS tài năng sánh ngang cùng kiến trúc thế giới trong vài ba chục năm nữa. Nếu vậy thì, theo tôi, tại sao không xây dựng một Chiến lược phát triển Kiến trúc Việt Nam đến 2030 hay 2045, có chỉ tiêu rõ ràng để phấn đấu, thay vì lặp lại Định hướng phát triển Kiến trúc chung chung như vừa qua.
KTS PHẠM THANH TÙNG - Chánh Văn phòng Hội KTS Việt Nam
Theo Tạp chí Xây dựng