Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) phối hợp với Ngân hàng Thế giới tổ chức Hội thảo Khởi động xây dựng Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Theo Cục Quản lý tài nguyên nước, kể từ khi Luật được ban hành đã phát huy hiệu lực, hiệu quả về nhiều mặt, tạo hành lang pháp lý khá đầy đủ, toàn diện trong quản lý, bảo vệ tài nguyên nước trên phạm vi cả nước góp phần phát triển kinh tế-xã hội.
Vai trò cần thiết của Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)
Hiện nay, tài nguyên nước Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn và cần thiết phải được bảo vệ, phục hồi để bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, trong bối cảnh tài nguyên nước chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu. Đặc biệt, việc phát triển kinh tế - xã hội với quy mô dân số nhanh (gần 100 triệu người) kéo theo nhu cầu sử dụng nước lớn; mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước giữa các địa phương, các ngành, lĩnh vực trên lưu vực sông ngày càng lớn, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng.
Bên cạnh đó, nguồn lực đầu tư cho phát triển ngành nước còn hạn chế, chủ yếu từ ngân sách Nhà nước, thiếu cơ chế chính sách thu hút được sự tham gia của khu vực tư nhân. Theo đó, xây dựng Luật tài nguyên nước sửa đổi theo hướng quy định các nội dung bảo đảm quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo chu trình của nước, tài nguyên nước là hữu hạn, phân công trách nhiệm cho các bộ, ngành triển khai thực hiện.
Ảnh minh hoạ (Nguồn: Internet)
Thực tế đòi hỏi cần phải tạo lập hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm minh bạch, đồng bộ để có khả năng vốn hóa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả; khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật nhằm quản lý, bảo vệ tài nguyên nước, góp phần quan trọng trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia.
Luật hóa được quan điểm tài nguyên nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, thiết yếu, do Nhà nước thống nhất quản lý; lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển vùng, lưu vực. Đồng thời, các quy định của Luật phải bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, đồng bộ với các pháp luật chuyên ngành liên quan và phù hợp với các điều ước quốc tế về tài nguyên nước mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia; khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật nhằm quản lý, bảo vệ tài nguyên nước.
Ngoài ra, kế thừa các nội dung của Luật tài nguyên nước năm 2012 đang phát huy hiệu quả; bãi bỏ các quy định bất cập; cập nhật, sửa đổi, bổ sung các quy định mới phù hợp với thực tiễn; nghiên cứu tích hợp các quy định về quản lý nước trong một bộ luật về nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết toàn diện các vấn đề về nước trên cơ sở tổng hợp, thống nhất quản lý về tài nguyên nước.
Những vấn đề cấp bách, đã rõ, được thực tiễn chứng minh và có sự thống nhất cao thì cần đề xuất ngay để quy định trong luật; những vấn đề tuy cấp bách, cần thiết nhưng là vấn đề mới, chưa có sự đồng thuận cao, có thể đề xuất thực hiện thí điểm.
Bên cạnh đó, thiết lập hệ thống hành lang pháp lý cho quản trị tài nguyên nước quốc gia hiện đại trên nền tảng công nghệ số; tiếp tục đổi mới thể chế, chính sách theo hướng xã hội hóa ngành nước, khuyến khích, thu hút các nguồn lực xã hội tham gia đầu tư khai thác sử dụng, bảo vệ, khôi phục nguồn nước bị suy thoái; phát triển kinh tế nước, coi sản phẩm nước là hàng hóa thiết yếu, được xác định giá và cần được quản lý, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Đảm bảo tiến độ xây dựng Luật Tài nguyên nước
Luật tài nguyên nước (sửa đổi) sẽ kế thừa các quy định của Luật tài nguyên nước năm 2012 đang phát huy hiệu quả; bãi bỏ các quy định bất cập; cập nhật, sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tiễn, các khó khăn, vướng mắc của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân kiến nghị trong quá trình thực thi các quy định của pháp Luật Tài nguyên nước trong thời gian qua.
Luật hoá một số quy định trong các văn bản dưới Luật đã được phát huy hiệu quả trong thực tiễn nhằm tăng giá trị pháp lý của các quy định này.
Đặc biệt, Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) sẽ chú trọng đến việc bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nước từ nước ngoài và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm.
Trên cơ sở cách tiếp cận và kết quả rà soát, đánh giá tình hình thực thi Luật tài nguyên nước và các yêu cầu phát sinh trong thực tế quản lý, Cục Quản lý tài nguyên nước đề xuất chính sách liên quan đến bảo đảm an ninh nguồn nước: Sẽ được lồng ghép trong các quy định về Quy hoạch, Điều tra cơ bản tài nguyên nước; khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước; điều phối, giám sát tài nguyên nước…. bổ sung xây dựng bộ chỉ số để bảo đảm an ninh nguồn nước.
Luật sửa đổi lần này cũng đề xuất việc quy định nguyên tắc thực hiện xã hội hoá; các hoạt động ưu tiên thực hiện xã hội hoá (điều tra cơ bản, quan trắc, giám sát, cải tạo, phục hồi các dòng sông; quyền lợi, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện…
PGS, TS. Dương Xuân Sơn