Bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam thời gian tới

  • Cập nhật: Thứ tư, 16/8/2023 | 8:43:12 AM

QLMT - Trong bối cảnh mới, chúng ta phải đổi mới tư duy về bảo vệ môi trường, không thể phát triển kinh tế bằng mọi giá, không đánh đổi môi trường lấy kinh tế.

»Pháp luật về bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam hiện nay


Ảnh minh họa: suckhoemoitruong.com.vn

Bối cảnh mới tác động đến hiệu quả bảo vệ môi trường, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam thời gian tới

Thứ nhất, từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới mở cửa phát triển đất nước đến nay, Việt Nam đã chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển đổi này đã làm chức năng của nhà nước thay đổi tạo ra những thay đổi lớn trong tổ chức bộ máy nhà nước, từ bộ máy mệnh lệnh hành chính sang nền hành chính phục vụ. Theo đó bộ máy nhà nước nói chung, trong đó có các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành ngày càng được tổ chức tinh, gọn, năng động làm việc có hiệu lực, hiệu quả hơn. 

Thứ hai, bối cảnh hội nhập mới diễn ra theo đó không chỉ dừng ở quan hệ chính trị, ngoại giao theo chiều rộng với nhiều quốc gia, nhiều vùng lãnh thổ, các tổ chức khu vực và quốc tế mà ngày càng hợp tác toàn có chiều sâu mang tính thực chất và chủ động. Sự hội nhập mang tính tất yếu này là cơ sở quan trọng thúc đẩy hoàn thiện chính sách pháp luật của Việt Nam nói chung, trong đó có chính sách pháp luật về bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. 

Thứ ba, kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân cũng được cải thiện, dân chủ hóa xã hội ngày càng được mở rộng, quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền được sống trong môi trường trong lành ngày càng được Nhà nước ta quan tâm chú trọng bảo đảm và vai trò của cộng đồng trong quá trình này ngày càng được coi trọng hơn.  

Thứ tư, thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động đến mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường,… không chỉ ở các quốc gia phát triển trên thế giới mà cả Việt Nam. Điều này cũng đặt ra yêu cầu xây dựng hoàn thiện pháp luật về BVMT nhằm tận dụng tối đa các thành tựu của cuộc cách mạng này vào kiểm soát ONMT; khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu góp phần bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành.

Thứ năm, ở chiều ngược lại, sau hơn 35 năm phát triển kinh tế theo chiều rộng chủ yếu dựa trên khai thác tài nguyên nên môi trường ngày càng bị suy thoái, ô nhiễm. Đến nay tài nguyên thiên nhiên cơ bản đã cạn kiệt; môi trường đất, nước, không khí, môi trường biển của Việt Nam ngày càng bị ô nhiễm nặng nề; đa dạng sinh học cũng bị suy thoái nghiêm trọng gây ảnh hưởng lớn đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người, sinh vật, cũng như quá trình phát triển bền vững đất nước. 

Không chỉ vậy, Việt Nam đã, đang chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, đặc biệt là hiện tượng nước biển dâng đã dẫn tới xâm nhập mặn; sự bất bình đẳng trong sử dụng nguồn nước xuyên biên giới, nhất là nguồn nước sông Mê Công; thiên tai, dịch bệnh hoành hành… tác động khủng khiếp môi trường và con người và ảnh hưởng lớn đến quá trình tiếp tục xây dựng hoàn thiện pháp luật về môi trường và thực hiện phát triển bền vững. Thực tiễn này khiến chúng ta phải đổi mới tư duy về BVMT, không thể phát triển kinh tế bằng mọi giá, không đánh đổi môi trường lấy kinh tế. Cần nhìn nhận không chỉ BVMT mà phải phát triển kinh tế môi trường bảo đảm quyền được sống trong lành.

Thứ sáu, xu hướng BVMT, kiểm soát ô nhiễm dựa vào cộng đồng cũng như xu hướng BVMT được thực hiện ở toàn bộ các khâu, giai đoạn trong đời sống kinh tế, xã hội,… cũng là những yếu tố tác động không nhỏ đến quá trình hoàn thiện pháp luật BVMT ở nước ta. 

Kiến nghị nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành

Thứ nhất, cần làm rõ khái niệm môi trường, minh định môi trường hiểu dưới giác độ rộng hay hẹp… Nếu chúng ta quan niệm môi trường theo nghĩa rộng thì môi trường không hẳn chỉ là môi trường tự nhiên mà bao hàm cả môi trường xã hội. Bởi bản chất của môi trường là thống nhất, chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, những biến đổi về môi trường có thể dẫn tới biến đổi lớn về xã hội và ngược lại sự phát triển của xã hội cũng tác động rõ rệt đến môi trường tự nhiên. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật. Là một văn kiện chính trị - pháp lý, Hiến pháp thường mang tính cương lĩnh lâu dài. Do vậy, việc ghi nhận các vấn đề trong Hiến pháp cũng phải có tầm nhìn mang tính quy luật. Từ bản chất của vấn đề môi trường và vị trí của Hiến pháp, chúng tôi cho rằng quyền được sống trong môi trường trong lành được ghi nhận trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 cần được nhận thức bao hàm cả trong lành về mặt tự nhiên và xã hội. 

Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 cần phải được cụ thể hóa hơn nữa trong các điều luật cụ thể đồng thời xây dựng cơ chế pháp lý đa dạng để bảo đảm thực hiện có hiệu quả quyền này trên thực tiễn. Đối với quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường cần quy định cụ thể hơn về kiểm soát ô nhiễm môi trường đất, không khí, môi trường biển. Về kiểm soát suy thoái tài nguyên cần phải khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo về rừng, bảo tồn đa dạng sinh học nhằm đảm bảo không gian sinh tồn cho con người và sinh vật.

Thứ ba, cụ thể hóa các quy định về khuyến khích các hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo của tổ chức, cá nhân. Chúng tôi cho rằng đây là quy định quan trọng thể hiện vai trò, tầm quan trọng của Nhà nước đối với việc bảo vệ môi trường cũng như nhu cầu phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên, quy định này lại chưa bao quát và chưa đúng với tầm của vấn đề. Nhìn lại thực tiễn một thời gian dài từ khi đổi mới đến nay chúng ta chủ yếu đẩy mạnh phát triển kinh tế theo chiều rộng, phát triển dựa trên nhân công giá rẻ, khai thác tài nguyên để tăng trưởng GDP mà chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề môi trường nên hiện nay nước ta đang đối mặt với nhiều thách thức lớn về cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường. Để hướng tới phát triển bền vững, Chương trình môi trường Liên Hợp quốc (UNEP) đã đưa ra ý tưởng phát triển "kinh tế xanh”. "Đó là nền kinh tế nâng cao đời sống của con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm đáng kể những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái”. Còn nôm na, kinh tế xanh được phát triển dựa trên các cỗ máy xanh, phát triển kinh tế không những không ảnh hưởng đến môi trường mà còn góp phần phát triển môi trường, nâng cao đời sống người dân, đảm bảo công bằng xã hội,… trong nội hàm phát triển kinh tế xanh cũng đã bao hàm vấn đề phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch,… Phát triển kinh tế xanh cũng đã được nhiều quốc gia trên thế giới ứng dụng như: Brazin, Nhật Bản, Ecuador, Nepal, Hàn Quốc…và mang lại nhiều lợi ích về kinh tế, xã hội cũng như môi trường bền vững . Ở Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng XI, cũng đã khẳng định đẩy mạnh phát triển kinh tế theo chiều sâu, "chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường” . Do vậy chúng tôi cho rằng cần cụ thể hóa các quy định về phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản pháp lý liên quan đồng thời cụ thể hóa sự quan tâm của Nhà nước đối với phát triển kinh tế xanh không nên/chỉ dừng lại việc khuyến khích mà Nhà nước cần phải tạo điều kiện để mọi tổ chức, cá nhân được phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

Thứ tư, cần quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Bởi Nhà nước đã thừa nhận quyền được sống trong môi trường trong lành thì Nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ. Cần phân cấp, phân quyền và xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành.

Thứ năm, về cơ chế bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành. Để bảo vệ các quyền con người, trong đó có quyền được sống trong môi trường trong lành được ghi nhận trong Hiến pháp có hiệu quả thì cần xây dựng cơ quan tài phán hiến pháp, trong đó quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này không chỉ là kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật, các văn bản dưới luật mà còn được hủy các văn bản trái Hiến pháp, tham gia giải quyết, bảo vệ các quyền được Hiến pháp ghi nhận. Bên cạnh đó, quy định rõ một Điều tại Chương 1 là Hiến pháp được áp dụng trực tiếp để có thể củng cố bảo vệ các quyền hiến định theo cả cơ chế bảo hiến và cơ chế thông thường. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 đã không quy định về vấn đề này dẫn tới người dân khó có thể bảo vệ được quyền của mình khi bị xâm phạm. 

Chúng tôi cho rằng cần xây dựng Luật bảo vệ hiến pháp nhằm cụ thể hóa quy định tại Điều 119 Hiến pháp năm 2013. Trong các mô hình tài phán hiến pháp thì chúng tôi cho rằng trong bối cảnh hiện nay mô hình Hội đồng bảo hiến sẽ hợp hơn với Việt Nam. Bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế pháp lý thuần túy để bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành có thể nghiên cứu, bổ sung thêm cơ chế khác để bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành, như: giao cho Trung tâm nhân quyền quốc gia  (nếu được thành lập) giải quyết, bảo vệ các vấn đề liên quan đến quyền con người nói chung, trong đó có quyền được sống trong môi trường trong lành.  

Bên cạnh đó, cần hoàn thiện thiết chế pháp lý bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành, như:

- Về cơ quan lập pháp: cần sớm nghiên cứu ban hành Luật bảo vệ hiến pháp nhằm hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền con người bằng cơ chế Hiến pháp. Hoàn thiện các quy định pháp luật môi trường nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý ô nhiễm môi trường; kiểm soát được suy thoái tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.

- Về cơ quan hành pháp. Ở trung ương việc bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành cần được phân định rõ ràng giữa các cơ quan tham gia thực hiện quản lý nhà nước về môi trường như: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Công an, Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải...mỗi cơ quan chịu trách nhiệm quản lý môi trường theo lĩnh vực chuyên ngành của mình. 

- Về thiết chế tư pháp. Xây dựng Tòa án chuyên trách, thẩm phán chuyên trách về môi trường. Bên cạnh hoàn thiện các quy định về khởi kiện, chứng cứ, chứng minh, thời hiệu khởi kiện, đảo nghĩa vụ chứng minh… cần tăng cường thực thi pháp luật về môi trường. Nhà nước sớm nghiên cứu đào tạo chuyên sâu và phát triển đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật, trước hết là cán bộ điều tra, luật sư, công tố viên và thẩm phán về môi trường; có chính sách hỗ trợ các văn phòng luật sư, văn phòng tư vấn pháp luật nhằm tư vấn, hỗ trợ về mặt pháp lý cho người dân, cộng đồng dân cư, và giúp người dân giám sát việc thi hành pháp luật, khởi kiện đối với các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân và cộng đồng, dân cư.

Ngoài ra để bảo đảm thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành có hiệu quả cần có những giải pháp về nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công chức tham gia quản lý nhà nước về môi trường (nâng cao quan trí) và nâng cao hiểu biết của mọi người về quyền được sống trong môi trường trong lành; tăng cường ngân sách cũng như tận dụng nguồn tài trợ, hợp tác, chia sẻ từ các quốc gia, các tổ chức quốc tế để phục vụ cho hoạt động bảo vệ môi trường, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. 

TS. BÙI ĐỨC HIỂN
Viện Nhà nước và Pháp luật

Tags quyền con người môi trường trong lành biến đổi khí hậu sự nghiệp đổi mới

Các tin khác

Với nỗ lực từ nhiều bên, thị trường công trình xanh đã bước đầu ghi nhận những bước tiến lớn trong việc chuyển dịch dòng vốn hướng đến các công trình xanh.

Hội nghị quốc tế lần thứ 8 của Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu UNESCO khu vực châu Á – Thái Bình Dương năm 2024 (APGN-8) được tổ chức trong bối cảnh cơn bão số 3 gây thiệt hại nghiêm trọng cho Cao Bằng và hàng loạt địa phương trên cả nước cùng nhiều quốc gia lân cận, tuy nhiên, hàng trăm đại biểu vẫn tới tham dự và chia sẻ tại 6 phiên hội thảo chuyên đề về một số giải pháp cho các vấn đề toàn cầu, đặc biệt là nỗ lực ứng phó biến đổi khí hậu.

9 yếu tố ảnh hưởng đến giá đất vừa được Hà Nội quy định rõ, trong đó có điều kiện về cấp thoát nước, cấp điện và điều kiện về giao thông.

Ngày 11/9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký ban hành Công điện số 93/CĐ-TTg về việc tập trung ứng phó lũ lớn, đảm bảo an toàn đê điều trên các sông ở Bắc Bộ, nhất là hệ thống sông Hồng - sông Thái Bình.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục