Ảnh minh hoạ: ITN
Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt đô thị tăng từ 78% năm 2008 lên 92% năm 2020; Dịch vụ thu gom đã được mở rộng tới các đô thị loại V và các điểm dân cư nông thôn; xã hội hóa công tác thu gom, vận chuyển và đầu tư xây dựng các cơ sở xử lý chất thải rắn đã được thực hiện (Hà Nội, Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Hải Phòng, Cần Thơ, Kiên Giang,…).
Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải rắn gây ra vẫn tiếp tục gia tăng, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và sự phát triển bền vững của đất nước. Tại một số địa phương, việc đầu tư hạ tầng thu gom, lưu giữ, tập kết, trung chuyển, vận chuyển và xử lý rác thải chưa đáp ứng với tình hình thực tế. Rác thải vẫn chủ yếu được xử lý bằng phương pháp chôn lấp hoặc bằng các lò đốt cỡ nhỏ không đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về quy hoạch, đầu tư, xây dựng liên quan đến công tác quản lý chất thải rắn ngày càng hoàn thiện và có những thay đổi so với giai đoạn trước đây. Việc quy hoạch, đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt có một số nội dung, quy định thay đổi theo các quy định pháp luật hiện nay.
Trên cơ sở các quy định pháp luật, chức năng, nhiệm vụ của Bộ ngành trong quản lý chất thải rắn, bài tham luận này xin tóm tắt một số nội dung liên quan đến công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) giai đoạn trước đây và các vấn đề liên quan đến quy hoạch, phát triển hạ tầng thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt hiện nay.
Một số kết quả đạt được đối với công tác quy hoạch, phát triển hệ thống thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt
Trong thời gian qua, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Xây dựng đã phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tổ chức lập và phê duyệt quy hoạch quản lý chất thải rắn, hướng dẫn các dự án đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn, cụ thể như sau:
Công tác quy hoạch
Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm, lưu vực sông
Quy hoạch xây dựng khu xử lý chất thải rắn 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và phía Nam đến năm 2020 (Quyết định số 1440/QĐ-TTg ngày 06/10/2008);
Quy hoạch xây dựng khu xử lý chất thải rắn Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 (Quyết định số 1873/QĐ-TTg ngày 11/10/2010);
Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2030 (Quyết định số 1979/QĐ-TTg ngày 14/10/2016);
Quy hoạch quản lý CTR lưu vực gồm lưu vực sông Cầu (Quyết định số 2211/QĐ-TTg ngày 14/11/2013); Quy hoạch quản lý CTR lưu vực sông Đồng Nai (Quyết định số 07/QĐ-TTg ngày 06/01/2015); Quy hoạch quản lý CTR lưu vực sông Nhuệ - Đáy (Quyết định số 223/QĐ-TTg ngày 12/02/2015).
Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng tỉnh
Hướng dẫn, đôn đốc các địa phương khẩn trương tổ chức lập, phê duyệt quy hoạch quản lý chất thải rắn trên địa bàn theo quy định. Tính đến tháng 12/2021, đã có 59/63 tỉnh/thành phố phê duyệt quy hoạch này (tăng 42 địa phương so với tháng 4/2012) .
Tổ chức các đợt công tác kiểm tra và làm việc về thực hiện quy hoạch và quản lý chất thải rắn tại các địa phương: Phú Thọ, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Quảng Ninh, Bắc Giang, Nghệ An, Bình Dương, Ninh Thuận, Bình Phước, Cần Thơ, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Tây Ninh, Hà Tĩnh, Cà Mau, Kiên Giang, Đồng Tháp…
Công tác quy hoạch nông thôn mới
Theo số liệu của hội nghị sơ kết 5 năm tổ chức thực hiện xây dựng nông thôn mới, cho đến nay có khoảng 99,2% tổng số xã đã có quy hoạch nông thôn mới. Trong quy hoạch này mỗi xã đều xác định vị trí điểm trung chuyển/điểm tập kết rác cho cấp xã hoặc điểm đổ rác theo từng thôn/xóm. Vị trí, quy mô cơ sở xử lý chất thải rắn quy mô lớn của huyện hoặc liên xã được xác định trong quy hoạch quản lý CTR của tỉnh.
Quy hoạch quản lý chất thải rắn đã đưa ra các dự báo phát sinh chất thải rắn, xác định phương thức và phân vùng thu gom, vận chuyển ; xác định số lượng, quy mô vị trí các trạm trung chuyển, cơ sở xử lý chất thải rắn nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tổng hợp CTR, nâng cao chất lượng môi trường. Các quy hoạch này được phê duyệt làm tiền đề, cơ sở cho các hoạt động quản lý chất thải rắn tiếp theo: xây dựng kế hoạch triển khai, lập dự án đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTR, giao đất, quản lý và sử dụng đất hiệu quả.
Hiện nay, theo quy định tại Luật Quy hoạch, các khu xử lý chất thải rắn sẽ được tích hợp vào quy hoạch tỉnh, quy hoạch vùng và định hướng trong Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia.
Về đầu tư xây dựng các cơ sở xử lý chất thải rắn
Xử lý CTR: Hiện có khoảng trên 50 nhà máy xử lý CTRSH tập trung được đầu tư xây dựng và đi vào vận hành với tổng công suất xử lý theo thiết kế khoảng 9.500 tấn/ngày (tăng khoảng hơn 5.000 tấn/ngày so với năm 2012) với công nghệ trong và ngoài nước góp phần gìn giữ môi trường, giảm khối lượng rác phải chôn lấp… Các công nghệ xử lý CTR thông thường đang áp dụng là chôn lấp, sản xuất phân compost, đốt:
Chôn lấp: Tổng số bãi chôn lấp của các địa phương là khoảng 660 bãi chôn lấp (có quy mô diện tích lớn hơn 1ha), trong đó tỷ lệ các bãi chôn lấp chất thải rắn hợp vệ sinh chiếm khoảng 20- 25%. Một số BCL đã áp dụng công nghệ thu hồi khí gas trong các bãi rác để phát điện như tại Nam Sơn - Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương,…
Xử lý rác thành phân hữu cơ: hiện nay có hơn 20 nhà máy xử lý rác thành phân hữu cơ đang hoạt động. Các nhà máy xử lý rác công nghệ nước ngoài vay vốn ODA đang hoạt động như Bình Dương (420 tấn/ngày, ODA Phần Lan), Nam Định (250 tấn/ngày, Pháp), Hải Phòng (Tràng Cát, 200 tấn/ngày, Hàn Quốc) …; các nhà máy công nghệ trong nước ở một số địa phương như Thừa Thiên Huế (Thủy Phương, 150 tấn/ngày), Kiên Giang (200 tấn/ngày), Ninh Thuận (200 tấn/ngày)…, công nghệ trong nước chi phí thấp, tận dụng tái chế một số thành phần chất thải góp phần giảm lượng chất thải rắn phải chôn lấp.
Các dự án đầu tư xử lý rác bằng công nghệ chế biến phân hữu cơ bằng công nghệ nước ngoài không phù hợp với tính chất rác thải chưa phân loại tại nguồn ở Việt Nam. Đến nay các công nghệ này đã lạc hậu hoạt động không hiệu quả, một số cơ sở đang chuyển đổi sang công nghệ đốt.
Đốt rác: Thời gian gần đây, xu hướng áp dụng công nghệ đốt CTR đã và đang được áp dụng tại nhiều cơ sở xử lý chất thải rắn, góp phần giảm thiểu lượng CTR chôn lấp, hiện có khoảng 20 nhà máy (có công suất trên 50T/ngày) áp dụng công nghệ đốt. Năm 2018, một số cơ sở xử lý chất thải rắn có quy mô lớn, sử dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường đã đi vào hoạt động như Dự án xử lý rác thải tại Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình (công suất 250 tấn/ngày); Dự án đốt rác phát điện tại Thới Lai, thành phố Cần Thơ (công suất 450 tấn/ngày). Hiện nay, nhiều dự án đốt rác quy mô lớn đang được đầu tư, triển khai như Nam Sơn, Hà Nội (4.000 tấn/ngày) ; Phú Sơn, Thừa Thiên Huế (600 tấn/ngày); Lương Tài, Bắc Ninh (300 tấn/ngày); Trạm Thản, Phú Thọ (500 tấn/ngày);…
Ở khu vực nông thôn, nhiều cơ sở xử lý chất thải rắn quy mô nhỏ sử dụng công nghệ đốt hoặc công nghệ ủ phân hữu cơ được đầu tư xây dựng và vận hành như tại Hà Nam, Nam Định, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bình Định, Bạc Liêu,… Tuy nhiên, Bộ Tài nguyên Môi trường cũng khuyến nghị về việc hạn chế đầu tư lò đốt công suất nhỏ hơn 300kg/h để đảm bảo theo quy định tại QCVN 61-MT:2016/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lò đốt chất thải rắn sinh hoạt.
Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù công tác quy hoạch quản lý chất thải rắn đã được quan tâm, tuy nhiên, việc triển khai thực hiện quy hoạch còn nhiều khó khăn vướng mắc do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan:
Chất lượng công tác quy hoạch chưa cao (do công tác thống kê, dự báo chưa theo kịp tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, đô thị, công nghiệp), chưa có kế hoạch thực hiện quy hoạch được phê duyệt. Phương pháp tuyên truyền, vận động và lấy ý kiến cộng đồng còn chưa đổi mới, vì vậy chưa tạo được sự đồng thuận của người dân đối với một số vị trí quy hoạch các khu xử lý chất thải rắn. Việc xác định xử lý riêng rẽ các loại chất thải khác nhau chưa được làm rõ trong các đồ án quy hoạch dẫn đến công tác đầu tư, quản lý còn gặp khó khăn. Việc xây dựng kế hoạch, bố trí nguồn lực thực hiện quy hoạch chưa sát với thực tiễn, dẫn tới việc tổ chức triển khai còn chậm.
Vấn đề về khoảng cách an toàn môi trường, các quy chuẩn, tiêu chuẩn về quy hoạch, xây dựng và các tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường và công tác quản lý quy hoạch, giám sát môi trường các khu vực xử lý CTR còn chưa đáp ứng thực tiễn.
Về quản lý quỹ đất các cơ sở xử lý theo quy hoạch: các cơ sở xử lý hiện nay đều có yêu cầu về khoảng cách ly an toàn, và nghiêm cấm các hoạt động dân dụng trong phạm vi bảo vệ. Do đó, việc quản lý quỹ đất thuộc hành lang bảo vệ an toàn về môi trường các cơ sở xử lý chưa được xác định rõ chủ thể quản lý và các hoạt động được phép thực hiện, gây lãng phí quỹ đất cũng như khó khăn trong công tác quản lý.
- Thủ tục đầu tư phức tạp, kéo dài, gây lãng phí nguồn lực đầu tư (đối với chất thải rắn sinh hoạt, là loại hình đầu tư PPP , thủ tục lựa chọn nhà đầu tư mất từ 1-2 năm, thủ tục đầu tư xây dựng: thẩm định thiết kế, thẩm duyệt PCCC, báo cáo đánh giá tác động môi trường, các thủ tục hoàn thành công trình bảo vệ môi trường,…).
Về chức năng, nhiệm vụ quản lý
Giai đoạn trước năm 2022
Tại Trung ương
Theo các quy định của pháp luật trong giai đoạn 2016-2021, công tác quản lý nhà nước về CTRSH được phân công cho nhiều Bộ, ngành cùng tham gia quản lý, bao gồm Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ và một số Bộ, ngành theo lĩnh vực, nhiệm vụ liên quan. Cụ thể như sau:
Bộ Xây dựng
- Hướng dẫn quản lý đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo quy hoạch được phê duyệt; phương pháp lập, quản lý chi phí và phương pháp định giá dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt;
Công bố định mức kinh tế, kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt; suất vốn đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt;
Phối hợp với Bộ Tài nguyên Môi trường xây dựng cơ sở dữ liệu về chất thải rắn sinh hoạt, quản lý, khai thác, trao đổi, cung cấp thông tin có liên quan đến quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
Bộ Tài nguyên và Môi trường
- Hướng dẫn trình tự, thủ tục, hồ sơ đề nghị xác nhận, điều chỉnh xác nhận bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt;
Hướng dẫn kỹ thuật, quy trình quản lý trong việc phân loại, lưu giữ, tập kết, trung chuyển, vận chuyển, sơ chế, tái sử dụng, tái chế, đồng xử lý, xử lý và thu hồi năng lượng từ chất thải rắn sinh hoạt;
Tổ chức thực hiện các nội dung về quản lý chất thải rắn sinh hoạt phục vụ công tác lập và triển khai quy hoạch bảo vệ môi trường;
Tổ chức quản lý, kiểm tra các hoạt động bảo vệ môi trường về quản lý chất thải rắn sinh hoạt;
Chủ trì và phối hợp với Bộ Xây dựng tổ chức xây dựng cơ sở dữ liệu về chất thải rắn sinh hoạt, quản lý, khai thác, trao đổi, cung cấp thông tin có liên quan đến quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
Bộ Khoa học và Công nghệ: chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt mới được nghiên cứu và áp dụng lần đầu ở Việt Nam.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành khác theo chức năng, nhiệm vụ được giao thực hiện công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo quy định.
Tại địa phương:
Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Tổ chức quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn tỉnh, phân công, phân cấp trách nhiệm cho các cơ quan chuyên môn và phân cấp quản lý cho Ủy ban nhân dân các cấp về quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo quy định.
Ban hành các quy định cụ thể về quản lý chất thải rắn sinh hoạt; các cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ để khuyến khích việc thu gom, vận chuyển và đầu tư cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Tổ chức chỉ đạo lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện quy hoạch xử lý chất thải rắn, quy hoạch bảo vệ môi trường theo thẩm quyền; lập kế hoạch hàng năm cho công tác thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt và bố trí kinh phí thực hiện phù hợp với chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Xây dựng mức thu phí vệ sinh cho các đối tượng hộ gia đình, cá nhân, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tổ chức, trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt; chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về quản lý chất thải rắn trên địa bàn.
Cơ quan chuyên môn tham mưu giúp UBND cấp tỉnh
Trước năm 2020 (giai đoạn trước khi triển khai Nghị quyết 09/NQ-CP), có 35 tỉnh/thành phố giao cho Sở Xây dựng là cơ quan chuyên môn tham mưu, giúp việc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong vấn đề quản lý chất thải rắn, bao gồm chất thải rắn sinh hoạt; có 20 tỉnh/thành phố giao Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn tham mưu, giúp việc Ủy ban nhân dân trong vấn đề quản lý chất thải rắn, 8 tỉnh/thành phố giao cho cả hai đơn vị trong việc tham mưu giúp việc Ủy ban nhân dân tỉnh về quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Một số địa phương còn có sự tham gia quản lý của Sở Nông nghiệp và phát triển Nông thôn trong công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt nông thôn (Hải Phòng).
Ngày 03/02/2019, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP, trong đó thống nhất giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn. Trên cơ sở đó, nhiều văn bản pháp luật đã được sửa đổi, các đầu mối quản lý về chất thải rắn tại các địa phương đã được tổ chức, xắp xếp lại theo tinh thần Nghị quyết số 09/NQ-CP của Chính phủ: Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; và Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022).
Hiện nay, hầu hết các địa phương đã quy định chức năng quản lý nhà nước về chất thải rắn giao Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện.
Để đồng bộ với chức năng, nhiệm vụ quản lý, Chính phủ đang rà soát, sửa đổi các Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Đến ngày 08/08/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2022/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng. Theo đó, Bộ Xây dựng được giao quản lý xây dựng hạ tầng kỹ thuật thu gom, lưu giữ, xử lý chất thải rắn (Khoản 8 Điều 2).
Các nội dung, quy định liên quan đến quy hoạch, đầu tư hạ tầng thu gom, xử lý CTRSH
Về các quy định pháp luật liên quan đến quy hoạch hiện nay
Trước năm 2018, quy hoạch quản lý chất thải rắn là một đồ án chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật, được lập riêng thành một đồ án để làm rõ quy hoạch chung xây dựng vùng tỉnh. Sau khi Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch số 35/2018/QH14, quy hoạch xử lý chất thải rắn chỉ được lập riêng đối với các đô thị là thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định tại Luật Quy hoạch đô thị số 30/2009/QH12, đối với các địa phương còn lại, quy hoạch quản lý chất thải rắn được tích hợp vào quy hoạch tỉnh trong theo quy định.
Như vậy, hiện nay, quy hoạch về chất thải rắn (trừ 05 thành phố trực thuộc trung ương) được xác định trong những đồ án quy hoạch và nội dung như sau:
(1) Quy hoạch tỉnh theo Luật Quy hoạch 2017: Phương án phát triển các khu xử lý chất thải, bao gồm các khu xử lý chất thải nguy hại cấp vùng, liên tỉnh đã được xác định trong quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng trên địa bàn; các khu xử lý chất thải liên huyện.
Phương án về vị trí, quy mô, loại hình chất thải, công nghệ dự kiến, phạm vi tiếp nhận chất thải để xử lý của các khu xử lý chất thải tập trung cấp quốc gia, cấp vùng đã được định hướng trong quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia trên địa bàn tỉnh.
(2) Quy hoạch chung đô thị theo Luật Quy hoạch đô thị 2009 (thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn, quy hoạch phân khu): vị trí, quy mô khu xử lý chất thải rắn.
(3) Quy hoạch xây dựng vùng huyện, vùng liên huyện theo Luật Xây dựng: Xác định mạng lưới, vị trí, quy mô các công trình đầu mối hạ tầng kỹ thuật mang tính chất vùng liên huyện, vùng huyện, gồm: Chuẩn bị kỹ thuật, giao thông, hệ thống điện, cung cấp năng lượng, cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải, quản lý chất thải rắn, nghĩa trang và hạ tầng viễn thông thụ động.
Nhận xét: như vậy, với các quy định pháp luật về quy hoạch hiện nay, việc quy hoạch về chất thải rắn mới chỉ xác định vị trí, quy mô khu xử lý chất thải rắn cấp vùng, tỉnh, liên huyện, đô thị.
Đối với các điểm thu gom, trạm trung chuyển, phân vùng thu gom, công suất, công nghệ, loại chất thải tiếp nhận, dự án ưu tiên đầu tư… không được làm rõ trong các quy hoạch này.
Trách nhiệm của UBND cấp tỉnh, cấp huyện
Trách nhiệm của UBND các cấp trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 về quản lý chất thải rắn:
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định việc thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn xây dựng và quy hoạch địa điểm đổ chất thải từ hoạt động xây dựng; bùn thải từ bể phốt, hầm cầu và bùn thải từ hệ thống thoát nước (Khoản 8 Điều 64. Bảo vệ môi trường trong hoạt động xây dựng).
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân loại cụ thể chất thải rắn sinh hoạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều này trên địa bàn theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường; có chính sách khuyến khích việc phân loại riêng chất thải nguy hại trong chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân (Khoản 2 Điều 75. Phân loại, lưu giữ, chuyển giao CTRSH).
Việc phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải cồng kềnh được thực hiện theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (Khoản 6 Điều 75. Phân loại, lưu giữ, chuyển giao CTRSH).
Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm bố trí mặt bằng điểm tập kết, trạm trung chuyển đáp ứng yêu cầu kỹ thuật về bảo vệ môi trường theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường (Khoản 2 Điều 76. Điểm tập kết, trạm trung chuyển CTRSH).
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quy hoạch, bố trí quỹ đất cho khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt, thực hiện việc giao đất kịp thời để triển khai xây dựng và vận hành khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn; bố trí kinh phí cho việc đầu tư xây dựng, vận hành hệ thống thu gom, lưu giữ, trung chuyển, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt; hệ thống các công trình, biện pháp, thiết bị công cộng phục vụ quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn (Khoản 6 Điều 78. Xử lý CTRSH).
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thực hiện quy hoạch có nội dung về xử lý chất thải nguy hại; không hạn chế việc thu gom chất thải nguy hại phát sinh trên địa bàn đơn vị hành chính cấp tỉnh khác về xử lý tại cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nguy hại trên địa bàn (Khoản 5 Điều 84. Xử lý chất thải nguy hại).
Nhận xét: Như vậy, các quy định về xác định điểm tập kết, trạm trung chuyển được giao cho UBND các cấp thực hiện. Việc quản lý quỹ đất, đầu tư xây dựng đối với các điểm tập kết, trạm trung chuyển CTRSH cần được nghiên cứu, hướng dẫn.
Một số vấn đề liên quan đến quy hoạch, đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH
Trách nhiệm quy hoạch, xác định các điểm tập kết, trạm trung chuyển, cơ sở xử lý chất thải rắn (sinh hoạt, xây dựng, nguy hại) được giao cho các cấp chính quyền địa phương. Tuy nhiên, việc xác định các điểm tập kết, trạm trung chuyển được thể hiện trong quy hoạch cấp nào hay loại hình văn bản pháp luật nào (quy hoạch hay kế hoạch), nội dung và hàm lượng chi tiết, cụ thể hiện chưa có hướng dẫn.
Trong quá trình quy hoạch các điểm tập kết, trạm trung chuyển, cơ sở xử lý chất thải CTRSH cần đánh giá các yếu tố về điều kiện tự nhiên, khả năng kết nối hạ tầng khu vực, khoảng cách ly an toàn, nhu cầu quy đất, phạm vi phục vụ... Tuy nhiên, vì là một nội dung nhỏ trong quy hoạch tỉnh nên hàm lượng, sự thể hiện đối với các quy hoạch này chưa được quan tâm đúng mức. Điều này sẽ dẫn đến chất lượng quy hoạch và khó khăn trong quá trình triển khai dự án đầu tư xây dựng cũng như quản lý quỹ đất theo quy hoạch (bao gồm diện tích cơ sở cũng như hành lang bảo vệ an toàn về môi trường).
Việc quản lý qũy đất, đầu tư xây dựng các trạm trung chuyển tại các đô thị hiện nay đang gặp khó khăn đối với việc tuân thủ các quy định pháp luật về đầu tư, ngân sách nhà nước, bảo vệ môi trường, xây dựng và đặc biệt là vấn đề quản lý tài sản công cũng như chi phí vận hành (định mức chi phí).
Kết luận
Các pháp luật về Quy hoạch, Xây dựng, Bảo vệ môi trường đã được hoàn thiện và quy định một số nội dung khá đầy đủ liên quan đến công tác quy hoạch, quản lý chất thải rắn. Tuy nhiên, các quy hoạch cấp thấp cần tuân thủ theo quy hoạch cấp cao hơn, trong khi các quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh vẫn đang được tổ chức lập. Vì vậy, trong thời gian tới, cần khẩn trương đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch cấp cao hơn, làm cơ sở sở để các địa phương tổ chức triển khai có hiệu quả công tác quản lý chất thải rắn. Đặc biệt là các yêu cầu hạ tầng thu gom đáp ứng việc thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn cũng như việc đầu tư đồng bộ hệ thống xử lý CTRSH phù hợp với việc phân loại.
Nguyễn Khánh Long
Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng